Tri thức là những giọt nước trong đại dương bao la!

Thứ Tư, 23 tháng 5, 2018

NGUYỄN CÔNG TRỨ: XEM CUỘC ĐỜI NHƯ MỘT CUỘC CHƠI



DŨNG PHAN
Để dễ so sánh sự khác biệt của Nguyễn Công Trứ giữa xã hội phong kiến, hôm nay tôi "Hoạ vân hiển nguyệt - Vẽ mây nẩy trăng" vậy. 

Trong chúng ta, hẳn ai cũng biết về tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Một tác phẩm phê phán xã hội phong kiến, bóp nghẹt lên tự do của con người. Và Tố Như, với thiên tài của bản thân, đã thấu tất cả lẽ đời, rồi sinh ra những câu thơ được ví như những viên ngọc trong làng văn học Việt Nam. Ở đây, ông cùng với Nguyễn Trãi là hai danh nhân văn hóa được UNESCO công nhận.

Nhưng khi đứng vấn đề lịch sử nhìn về, bạn sẽ nhận ra cái tài hoa của Nguyễn Du thật sự không hữu dụng trong vấn đề thay đổi thời cuộc. 

Khác với Nguyễn Du, chứng kiến rõ bộ mặt phong kiến, và chán chường với tất cả, thì Nguyễn Công Trứ lại yêu đời hơn rất nhiều. Nguyễn Du vẽ nên một Kiều đau khổ, và ông u uất theo đó. Nguyễn Du “Độc Tiểu Thanh ký” và tự khóc với mình, với đời. Nguyễn Công Trứ không bận tâm đến những sắc đẹp như tranh ấy, ông sống lạc quan, đời vui vẻ. Bảy mươi ba tuổi mà ông còn đi cưới vợ, khi cô dâu hỏi ông bao tuổi, ông cười trả lời: 

“Năm mươi năm trước, anh hai ba”

Rồi sau đó, như chưa đủ độ tê. Cụ Trứ “quất” thêm câu khá "hấp dẫn".

“Xưa nay mấy kẻ đa tình,
Lão Trần là một, với mình là hai.
Càng già, càng dẻo, càng dai!”

Vâng, và cô dâu của cụ Trứ mới có 17 tuổi. Đương nhiên là đổ cái rầm !

Cô và cụ Trứ thường ngao du, đàn hát. Cụ chẳng thèm cưỡi ngựa, cứ cưỡi bò cho nó…lạ, cho nó ngầu với thiên hạ. Một lần quan Bố chính Hà Tĩnh khi chứng kiến cảnh này đã tặng cụ hai câu thơ: 

“Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu,
Phong lưu đáo lão thế gian vô!”

Nghĩa là, những kẻ làm nên sự ngiệp khiến người đời nể thì trong thiên hạ vẫn còn, chứ còn người già mà phong lưu tuế nguyệt thế này thì thế gian … tuyệt chủng rồi.

Những chính "chú rể 73 tuổi" ấy, 7 năm sau khi nghe tin Pháp xâm lược nước ta, đã lên xin vua cho cầm quân dẹp giặc. 

Có nghĩa rằng, nếu dùng chính lăng kính hiện đại mà nhìn nhận, ở Nguyễn Công Trứ có đầy đủ sự quyến rũ mà những người phụ nữ thích nhất ở một người đàn ông. Trong tình yêu thì đa tình, phóng khoáng. Trong cuộc sống, thì luôn luôn lạc quan, yêu đời, cho dẫu bao thăng trầm vẫn cứ đổ dồn về. Đối diện với xã hội còn nhiều bất công, ngang trái và xuống cấp, ông không lấy đó làm bất mãn, mà mỉm cười khoái hoạt, rồi cố thay đổi lấy nó trong khả năng của mình. Đối với dân tộc, ông yêu nước, ông bảo vệ kỷ cương, đứng ra cầm quân dẹp giặc như một hoài bão của kẻ bậc trượng phu tướng quân giữa đời.

Một điều nữa, Nguyễn Du cũng áy náy với thời cuộc, nhưng ông không bắt tay vào làm, dẫu được Gia Long vô cùng sủng ái và coi trọng, thì Nguyễn Du vẫn thu mình lại, và gửi lòng đau qua những câu thơ kinh điển, cùng lời than “Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/Thiên hạ ai khóc Tố Như chăng?”. Ngược lại Nguyễn Công Trứ lại tự mình đứng ra làm tất cả, làm quan ông tự tay cai quản dân, chăm lo cho dân, khai phá vùng đất. 

Nhiều bạn hỏi tôi, tại sao không viết về Trần Khánh Dư trước. Có lý do hết. Gần đây, có thông tin về việc 150ha rừng ngập mặn sú vẹt ven biển thuộc huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình được đề nghị phá bỏ để tạo mặt bằng làm khu công nghiệp. Tôi chợt nhớ ra, trên vùng đất Thái Bình ấy, có huyệnTiền Hải chính do Nguyễn Công Trứ khai phá nên. Bằng việc chiêu mộ dân nghèo, đứng ra chỉ đạo đắp đê lấn biển, lập ấp, ông đã khai sinh ra huyện trên. Tiền nhân xây dựng, hậu nhân giữ gìn và phát triển, câu chuyện chặt rừng ở trên thật khó để nhìn rộng hết các vấn đề, bài viết này cũng không lạm bàn. Tôi chỉ muốn nói rằng, giá trị của lịch sử, của câu chuyện lịch sử chính là giúp đời sau hiểu được trong bất kỳ tình huống nào, khi đã biết lịch sử thì đừng để lợi ích cá nhân phủ nhận công lao cha ông khai phá.

Ở Nguyễn Du có một cái cảm nhận thiên tài về mọi thứ xung quanh, thấy rõ được cái tàn tệ của Nho gia, phong kiến, nhưng ông đứng nhìn trong cảm giác nhục nhã với thời cuộc. Ngược lại Nguyễn Công Trứ ngạo thế với đời, xông pha vào trong đời, và đối đầu với cuộc đời. 

Không có ai khổ sở như ông về cái đời làm quan thăng trầm. Bạn có biết Nguyễn Công Trứ từng lên tới vị trí thượng thư, tổng đốc, đã từng làm phủ doãn Thừa Thiên. Nhưng cũng ông, phải xuống làm lính lệ. Thế mà sóng gió cuộc đời và chốn quan trường không thổi bay đi ý chí của ông. 

“Năm Thiệu Trị thứ tư 1844, đang làm Tuần vũ An Giang, Nguyễn Công Trứ bị Nguyễn Công Nhàn vu cáo chở thuyền gian, buôn hàng lậu nên bị nhà vua cách hết chức tước, bắt làm lính trơn sung vào đội quân tuần thú ở Quảng Ngãi. Đến Quảng Ngãi, Nguyễn Công Trứ, lúc đó chỉ là một tay lính trơn, thản nhiên vào trình diện quan Tổng đốc sở tại. Vốn vì trước kia đã có lần chịu ơn Nguyễn Công Trứ nên viên quan đầu tỉnh tiếp đãi ông lính già rất tử tế, thấy tình cảnh một người từng là Thượng thư nay thất thế đến mức như vậy thì tỏ ra rất áy náy, bất yên, muốn cho phép Cụ cởi đồ lính ra, nhưng Nguyễn Công Trứ nói:

- Xin ngài cứ để vậy. Lúc làm Đại tướng tôi không lấy làm vinh, thì nay làm tên lính tôi cũng không lấy làm nhục. Người ta ở địa vì nào, có nghĩa vụ đối với địa vị ấy, làm lính mà không mang đồ ấy thì sao gọi là lính được.

Lúc ấy Nguyễn Công Trứ vừa 65 tuổi. Cái tư cách của con người khi làm Ðại tướng chẳng cậy làm vinh mà khi làm lính không lấy làm nhục càng khiến viên quan đầu tỉnh kính phục. Ông tâu vua, xin xét lại vụ án buôn lậu ở An Giang. Quan Án sát Trần Ngọc Ðao được lệnh điều tra đầy đủ chi tiết, khi trở về kinh tâu trình lại với vua rằng Nguyễn Công Nhàn đã phạm tội vu cáo; Nhàn bị trị tội nặng và Nguyễn Công Trứ lại được bổ nhiệm chức Chủ Sự ở Bộ Hình rồi lại Án Sát Quảng Ngãi, kế đến Thự Phủ Thừa Thiên.”

(Trích từ “36 giai thoại về Nguyễn Công Trứ” – Huyền Ly/2008)

Cuộc sống quanh bạn sẽ luôn chứng kiến cảnh nhân tình thế thái, cuộc đời thăng trầm đôi khi đẩy những con người đang trên đỉnh cao chót vót về lại vực sâu thăm thẳm. Nhưng đối mặt với chuyện đó, được mấy ai vẫn ngang tàng đâu chứ?

Nguyễn Công Trứ cách đây 2 thế kỷ, lại từng có những câu thơ rất đáng để chúng ta ghi nhớ: “Thế thái nhân tình gớm chết thay/Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy”, Hoặc: “Hẹn với lợi danh ba chén rượu, Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ.” Rồi thì khi thăng giáng, ông viết “Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào/Đã sa xuống thấp lại lên cao.”

Nguyễn Công Trứ chẳng sợ một cái gì cả. Chuyện mình mình làm, đường mình mình đi, giống như một bài ca ngất ngưởng 

Xã hội phong kiến và triết lý “tam cương ngũ thường” như một chiếc vợt bủa vây lấy con người, và bóp nghẹt lấy tự do cá nhân. Sống trong xã hội nơi vấn đề tự do cá nhân chỉ là thứ yếu, thì Nguyễn Công Trứ đã xuất hiện, như một ánh chớp giữa trời quang, cười ngạo với thiên hạ. Bài thơ ngất ngưởng mà ông sáng tác, khi đọc lên, dùng chính lăng kính hiện đại nhìn về thì chúng ta mới phải cúp rạp đầu. Đó là những câu thơ của tự do hiện đại, mà như tôi nói ở trong phần giới thiệu tối qua, ông là người vượt trên tầm một thế hệ về chủ nghĩa cá nhân. Nhưng cái vượt tầm này không phải là kiểu vượt tầm chính trị dạng Hồ Quý Ly của thế kỷ 15. Cái hơn của Nguyễn Công Trứ, đó là ông biết xem trọng tự do cá nhân hơn "tam cương ngũ thường".

“Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng 
Được mất dương dương người tái thượng 
Khen chê phơi phới ngọn đông phong 
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng 
Không Phật, không tiên, không vướng tục 
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú 
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung 
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”

Phải, vướng bận gì? Tiên phật gì? Ai đã ép cả xã hội này vào trong khuôn khổ Nho Gia ấy? Nguyễn Du yêu thương mà ngơ ngác đứng nhìn, còn Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng trên lưng bò, và hét lên với tất cả hậu nhân:

“Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo!”

Luận về thi ca, Nguyễn Công Trứ không giỏi bằng Nguyễn Du, nhưng dù cả 2 cùng làm quan văn, thì Nguyễn Công Trứ có tính cách hướng ngoại hơn Nguyễn Du. Từ văn mà đi sang võ. Và Nguyễn Công Trứ từng lập cả thương xã ở nông thôn để lưu thông hàng hóa. Có thể nói, nếu Nguyễn Du thấy được vấn đề của phong kiến, thì Nguyễn Công Trứ ngạo nghễ với thói đời phong kiến. Chính vì vậy, Nguyễn Công Trứ lấy được về cho mình sự tôn trọng của hậu thế. Người ta nhắc về Nguyễn Du chỉ nhắc đến Truyện Kiều, nhưng nhắc về Nguyễn Công Trứ, là nhắc về hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải được ông khai phá, là nhắc đến sự tích tuổi 80 còn xin vua đem quân đi đánh giặc Pháp, là nhắc đến vị quan văn mà đánh giặc cũng tài.

Chuyện Nguyễn Công Trứ đã làm cho dân. Giai thoại dưới đây là một ví dụ:

“Trên đường từ An Giang đi Quảng Ngãi, không có ngựa xe, ông lính Trứ đi bộ, mình mặc cái áo cộc màu chàm, đầu đội chiếc nón dấu, vai quàng ruột tượng, con dao tu vỏ bằng gỗ cài bên hông. Một hôm, đi đến huyện Tuy Phước thì trời đã tối, liên hỏi thăm tìm chỗ trú nhờ qua dêm đâu. Nghe giọng nói biết ông lính này là người xứ Nghệ, lại thấy ông già cả thương tình nên một người dân sở tại ân cần chỉ cho ông nhà quan Huấn đạo huyện mình và bảo: “Quan là người đồng hương với ông đấy, tình ngài hiền và trọng người lắm, ông nên vào chào ngài rồi xin ngủ nhờ luôn cho đỡ vất vả”. Nguyễn Công Trứ nghe lời người dân tốt bụng.
Chủ nhà đúng là vị quan tử tế, nhận ra giọng đồng hương của người lính già lỡ độ đường, quan Huấn bảo người nhà dọn cơm nước mời ăn tươm tất rồi cùng ngồi nói chuyện tự nhiên. Khi được biết người lính vừa từ An Giang ra, quan hỏi:

- Ông ở trong đó chắc có biết quan Tuần vũ Nguyễn Công Trứ?

- Thưa, tôi có biết. Thì ra quan Huấn cũng có quen biết với quan Tuần vũ?

- Không, chúng tôi không có cái vinh dự đó, nhưng đã được nghe tiếng cụ rất nhiều, vì cụ cũng là đồng hương với chúng tôi mà! Nào cầm quân đánh giặc, nào khẩn điền, nào thi ca, việc gì cụ cũng giỏi, cũng lừng danh khắp nước! Chúng tôi chỉ coi mình như bậc học trò của cụ, ai ai cũng ao ước được gặp cụ một lần!

Thấy viên quan Huấn đạo này chân tình, lại có lòng quý mến mình như vậy mà mình không nói thực ra thì thật không tiện nên người lính già liền nói:

- Thưa… tôi chính là Nguyễn Công Trứ đây ạ!”

Tôi tin rằng, hạnh phúc nhất của một người quan phụ mẫu, là được người dân nhắc về sau lưng với tình cảm trìu mến như thế.

Giai thoại về ông rất nhiều, có lẽ một trong những giai thoại nổi tiếng nhất là liên quan đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm Minh Mạng thứ 14, Nguyễn Công Trứ khi ấy là Doanh Điền sứ - chức quan quản lý về khẩn hoang đất đai và đê điều, kéo quân và dân phu về vùng Vĩnh Bảo quê hương của Trạng Trình xưa. Theo dự tính, để trị thủy và thau chua rửa mặn thì phải đào một con sông cắt ngang khu đền Trạng, và như vậy buộc phải phá đền. Mr Trứ chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, xắn tay vào làm thì “bùm”. Lộ ra một tấm bia đá nhỏ phía sau có tạc bài thơ: “Minh Mạng thập tứ/Thằng Trứ phá đền/Phá đền thì phải làm đền/ Nào ai đụng đến Doanh điền nhà bay!”. Lời tiên tri sau gần 300 năm, đủ cả thời gian, sự việc, cả tên và chức vụ Doanh điền sứ của Mr Trứ. Ông vội dừng mọi việc, tấu trình ngay về kinh và vua Minh Mạng đã chuẩn tấu mở con sông đi hướng khác, đồng thời cấp tiền bạc để trùng tu lại đền Trạng khang trang hơn.

Nguyễn Công Trứ ngông, nhưng không phải là không biết lý lẽ. Sự nghiệp làm quan dẫu lên voi xuống chó nhiều, nhưng Uy Viễn Tướng công có đủ tài để khiến vua không thể không dùng. 

Nhắc đến thói "bỡn cợt" chốn nhân gian, chúng ta đều nói về "Trạng Quỳnh". Phần nào đó là Tú Xương, Nguyễn Khuyến. Ba con người ấy đại diện cho sự trào phúng cười nhũng nhiễu nhân gian của dân tộc này. Và Nguyễn Công Trứ cũng vậy. Thơ ông không hay bằng Tú Xương, Nguyễn Khuyến. Nhưng vị trí của một cựu thượng thư giúp ông chỉ tận tay, day tận mặt tất cả những kẻ xấu xa trong xã hội cũ.

Và đời thăng trầm trong chốn quan trường của Nguyễn Công Trứ từ đó mà ra. Luôn bị dèm pha, luôn bị tố cáo.

Lời kết:

Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ, hai con người sinh ra ở huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh này đại diện cho hai trường phái lớn nhất của cả dân tộc chứ không phải mỗi thời đại. Họ cùng nhìn thấu được cái xã hội, nhưng có hai cách làm khác nhau. Nguyễn Du đại diện cho cái tài hoa nhưng u tối, biết rõ mà bất lực, u uất, và đau khổ. Nguyễn Công Trứ đại diện cho cái tài hoa mà bay bổng, ngông nghênh mà không sợ hãi, lấy cái yêu nước thương dân làm gốc để đi theo và thực hiện. 

Thời nào cũng như thời nào, luôn có những bậc tài hoa khí tiết bất mãn với thời cuộc, và chọn thu mình lại trong vỏ ốc khép kín, hoặc làm quan mà chỉ như chiếc bóng mờ. Ngược lại, luôn có những người dùng cái tài hoa của mình, để đương đầu, sống lạc quan với thiên hạ, giúp đời tất cả trong chính khả năng của bản thân. Bởi vì:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất 
Phải có danh gì với núi sông”


Share:

"LADY DEATH"


— Hỡi các quý ngài, tôi 25 tuổi và cho đến thời điểm này, chính tôi đã tiêu diệt 309 tên phát xít. Vậy các ngài nghĩ sao về việc cứ trốn sau lưng tôi chừng đấy thời gian?”

Lời mở màn buổi nói chuyện của cô gái trẻ mang tên Lyudmila Pavlichenko ngay lập tức khiến đám đông phải lắng nghe và vỡ oà ngay sau đó. Đó là 1 ngày cuối năm 1942 tại Chicago, khi cô gái hồng quân nhỏ nhắn này trở thành công dân Xô Viết đầu tiên được chào đón tại Nhà Trắng theo lời mời của tổng thống Mỹ lúc đấy là Franklin Roosevelt. 

Chúng ta đang nói về người phụ nữ được mệnh danh là “Lady Death”, nữ xạ thủ bắn tỉa vĩ đại và có thành tích xuất sắc nhất được ghi nhận trong lịch sử chiến tranh. Bà đồng thời cũng là nỗi kinh hoàng của binh lính Đức trong thế chiến thứ II, là niềm tự hào của Hồng Quân Liên Xô trong cuộc trường chinh tiêu diệt Chủ nghĩa Phát Xít. 

Sinh ngày 12 tháng 7 năm 1916 tại thành phố Bila Tserkva thuộc đất nước Ukraine. Ngay từ bé, Lyudmila đã thể hiện niềm đam mê với súng trường nói riêng và khí tài quân sự của nói chung. Nhưng phải đến năm 14 tuổi, khi theo gia đình chuyển về Kiev, bà mới có điều kiện tham gia câu lạc bộ bắn súng OSAAVIAKhIM và nhanh chóng phát triển các kỹ năng cơ bản về bắn tỉa trong khi vẫn đang thực hành công việc thợ mài tại nhà máy thuốc súng Kiev.

Tự ví mình như một “tomboy” và dù không nổi trội về mảng học tập trong trường, nhưng về tranh tài các môn thể thao, Lyudmila không muốn để cho bản thân thua kém bất cứ một cậu con trai nào. 

"Khi thằng nhóc hàng xóm khoe khoang về thành tích cự ly của mình trong môn bắn súng", Pavlichenko đã hùng hồn tuyên bố với đám bạn rằng: "Chắc chắn nữ giới cũng có thể làm được như vậy" và tự bắt bản thân phải luyện tập nặng hơn rất nhiều lần để chứng minh lời nói ấy. 

Nếu không có chiến tranh, chắc hẳn Pavlichenko sẽ là nhà nghiên cứu lịch sử sau khi hoàn tất bằng cử nhân chuyên ngành này tại trường Đại Học Kiev. Tuy nhiên, định mệnh đã khoác lên cho bà tấm áo lính khi vào tháng 6 năm 1941, nghe tin Đức Quốc Xã bắt đầu mở chiến dịch xâm lược đánh vào Liên bang Xô Viết. Pavlichenko lúc ấy đang học năm thứ 4 tại trường đã quyết định tạm xếp ngòi bút và xin tình nguyện nhập ngũ để tham gia chiến đấu. 

“Khi ấy tôi đang ở Odessa khi quân Đức và Romania chuẩn bị xâm lăng. Nhưng họ không cho phép nữ giới được tham gia chiến trường, vì thế tôi đã phải nghĩ đến mọi mánh mà trong đầu có thể nghĩ ra để gia nhập hàng ngũ binh sĩ.” Mặc cho quân đội cố gắng hướng bà vào đơn vị y tá lúc ấy, Pavlichenko vẫn nằng nặc muốn được cầm súng để chứng minh khả năng của mình. 

Không thể chối từ sự nhiệt tình ấy, quân đội Hồng Quân đành đưa ra một thử thách cho bà tại một ngọn đồi mà họ đang đóng quân khi đưa khẩu bắn tỉa Tokarev SVT-40 bán tự động với ống 3.5X vào tay bà và nói hãy thử bắn hai người Romania lúc ấy đang làm việc trong quân Đức. 

“Sau khi tiêu diệt hai mục tiêu được chỉ định, tôi đã được công nhận về khả năng. Nhưng hãy đừng tính hai mục tiêu này vào chiến tích của tôi vì đơn giản đây chỉ là những phát súng bắn test.” 

Cô gái trẻ sau đó được nhận vào Sư đoàn Thiết Giáp Chapayev số 25. Tại đây, bà trở thành một trong 2000 nữ xạ thủ bắn tỉa của Hồng Quân tham gia cuộc chiến (chỉ có 500 người còn sống sót khi kết thúc chiến tranh) và nhanh chóng được điều động ra tiền tuyến. 

“Nhiệm vụ của tôi đơn giản chỉ là bắn hạ càng nhiều kẻ địch càng tốt. Trên lý thuyết thì là vậy, thực tế khắc nghiệt hơn rất nhiều khi phải tham gia vào chiến trường thực thụ”. 

Trong ngày đầu tiên trên chiến trường, sau khi trinh sát địa hình, bà phát hiện mình đang đứng ở rất gần quân địch. Cầm trong tay khẩu Mosin-Nagant 7.62mm với ống PE 4x, nhưng thay vì cảm giác cần có của một người lính bắn tỉa là điềm tĩnh thì đó lại thay bằng sự run rẩy trên đôi bàn tay khiến bà không thể nhấc nổi khẩu súng lên. 

Một người lính Hồng Quân trẻ đi cùng với bà trong nhiệm vụ hôm ấy nhưng trước khi cả hai có cơ hội ổn định vị trí của mình, một viên đạn của một lính Đức đã hạ gục người lính trẻ kia ngay trước mắt bà.

Pavlichenko sốc đến ngỡ ngàng.

“Cậu lính đấy là một thanh niên tốt, nhiều năng lượng và tràn đầy sự lạc quan. Nhưng chàng trai trẻ đó đã bị sát hại ngay trước mắt tôi. Sau cú sốc đó, không có gì có thể ngăn cản được tôi nữa.”

Nếu như viên đạn ấy bay lệch về phía bà, có lẽ lịch sử đã đổi khác. Nhưng bước ngoặt về cái chết người đồng đội trẻ ấy, đã tạo ra một chiến thần cho Hồng Quân Liên Xô, phủ lên sự ám ảnh khủng khiếp về những cái chết chớp nhoáng bất ngờ cho quân đội Đức. 

Cuối ngày hôm đó, Pavlichenko ghi dấu đầu tiên trong bảng thành tích “tiêu diệt 309 quân địch” bằng việc hạ gục 2 lính trinh sát Đức đang thăm dò tại khu vực đó. 

Trong 2 tháng rưỡi chiến đấu tại Odessa, đã có 187 lính địch bị tiêu diệt dưới bàn tay xạ thủ của bà. Khi quân Romania áp đảo và gia tăng được sự kiểm soát tại đây, đơn vị của bà được chuyển về Sevastopol cố thủ. Trong hơn 8 tháng tại cứ điểm mới, bảng thành tích của bà tăng dần lên với số lượng địch quân bị hạ gục trong sự chính xác đến lạnh lùng của Pavlichenko. 

Sự nguy hiểm cũng vì thế tăng lên theo cấp số nhân, Đức Quốc xã cũng nhận ra rằng để hoàn toàn làm chủ tình thế phải triệt hạ quân bài chiến thuật đáng sợ của Liên Xô. Đối phó với Pavlichenko, họ cắt cử những xạ thủ bắn tỉa mạnh nhất của mình với mục đích tiêu diệt bà. 

Pavlichenko không bao giờ mất đi sự tập trung trong các cuộc đối đầu như thế, bằng chứng là có đến 36 lính bắn tỉa của Đức đã mất mạng khi cố gắng triệt hạ bà. 

“Đó là trải nghiệm căng thẳng nhưng cũng là trải nghiệm tẻ nhạt nhất trong cuộc đời tôi. Bạn phải gồng người để duy trì sự bền bỉ và sức mạnh cần thiết để có thể ẩn nấp, nguỵ trang 15 đến 20 tiếng cố định trong một chỗ. Cuối cùng, những người lính bắn tỉa Đức bị bắn hạ chỉ vì thiếu kiên nhẫn và chuyển động nhiều hơn.” 

Cứ điểm Sevastopol cuối cùng cũng không thể giữ nổi do lực lượng quân Đức vượt trội hơn về quân số. Với thành tích tiêu diệt 257 lính Đức tại thời điểm đó, bà được triệu tập về lực lượng Hồng Quần miền Nam vào tháng 5 năm 1942 để tiếp tục chiến đấu. 

Không những là sát thần của quân địch, bà còn từ chối lời gọi của ngay chính tử thần nhiều lần trong cuộc chiến. Trong tổng số 4 lần bị thương nặng, có thể kể đến việc vị trí của bà bị dội bom tập kích làm cho những mảnh vụn của bom văng thẳng vào mặt mình. Sau lền chấn thương thứ 4, Liên Xô quyết định lui Pavlichenko về làm nhiệm vụ đào tạo những lính bắn tỉa mới. 

“Thời gian đó, ngay cả những người Đức cũng nhớ tới tên tôi. Họ cố gắng chiêu dụ tôi qua loa phát thanh như: Lyudmila Pavlichenko, qua đây với chúng tôi nào. Nước Đức sẽ cung cấp cho bạn nhiều sôcôla và được trọng dụng với tư cách sĩ quan Đức.”

Tuy nhiên, khi việc chiêu dụ thất bại, Đức Quốc xã hăm doạ sẽ xé xác bà ra thành 309 mảnh. Điều đó vô tình lại làm bà hào hứng hơn “Ôi, không thể ngờ họ còn có bảng thành tích của tôi trong tay.” 

Sau khi được thăng cấp lên trung uý, Pavlichenko rút khỏi tiền tuyến về hậu phương. Và dấu mốc 309 địch quân bị hạ thủ, cũng là dấu mốc cuối cùng của bà trong cuộc chiến chống lại Đức Quốc xã tại chiến tranh thế giới thứ 2. Các hoạt động chính trường của bà trong thời gian đấy cũng đem lại nhiều sự tích cực về mặt ngoại giao cho Liên bang Xô Viết. 

Ở trên có nói, nếu không có chiến tranh hẳn bà sẽ là một sử gia. Và dù có chậm hơn 4 năm, nhưng sau khi kết thúc cuộc chiến, Pavlichenko trở về ĐH Kiev để hoàn thành nốt khoá học của mình và bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu lịch sử. Từ năm 1945 đến 1953, bà còn là trợ lý nghiên cứu tại Tổng tư lệnh Hải Quân Liên Xô, trước khi về làm tại Uỷ ban Cựu Chiến Binh Xô Viết. Pavlichenko qua đời vào ngày 10 tháng 10 năm 1974, hưởng thọ 58 tuổi, bà được chôn tại nghĩa trang Novodevichye thuộc thành phố Moscow. 

Năm tháng trôi qua, thời cuộc xoay vần khắc theo dòng lịch sử, Liên Xô không còn và tan rã, tranh chấp tại Crimea khiến quan hệ căng thẳng giữa Nga và Ukraine càng thêm leo thang. Nhưng có một thứ sẽ không bao giờ thay đổi, sự yêu mến dành cho bà của người dân hai đất nước, sự kính phục của bên đối địch. Và trên hết, bà là hình ảnh đại diện cho sự tự tôn, mạnh mẽ, đầy chủ quyền của nữ giới dù trong binh biến hay thời bình. 




© Jacob Vương

Ghi chú:

(1) - Trận chiến kinh điển tại Sevastopol của bà được các nhà làm phim Ukraine và Nga phối hợp sản xuất vào năm 2015 mang tên Bitva Za Sevastopol (tên tiếng Anh là Battle for Sevastopol). Diễn viên Yuliya Peresild thủ vai nữ anh hùng bắn tỉa Lyudmila Pavlichenko. 

(2) - Bài viết có sử dụng và tham khảo các tư liệu như:
● "Lady Sniper" của Time Magazine
● "Girl Sniper Calm Over Killing Nazis" của New York Times. ● "Guerilla Heroes Arrive for Rally" của Washington Post

Cuối cùng, cho nhân vật kế tiếp, các bạn muốn viết về kẻ được mệnh danh là số 1, là cao thủ đệ nhất của lính bắn tỉa hay muốn đi qua thêm một vài nhân vật trứ danh khác đã ? Dù gì, cũng rất mong nhận được ý kiến phản hồi từ các bạn.
Share:

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2018

OSIN HUY ĐỨC


Về "Bên thắng cuộc" của Osin: Heo thêm cánh, gà trụi lông!
Thời gian qua dư luận mạng xôn xao vì cuốn "Bên thắng cuộc" của Osin Huy Đức, một cựu nhà báo tại Việt Nam. Tôi cũng không tính đọc cuốn này làm gì vì trong suy nghĩ của tôi, Osin Huy Đức chẳng qua cũng là một kẻ "chiêu hồi" như Bùi Tín mà thôi. Tuy nhiên, do độ hot của cuốn sách tôi cũng đã tải về để xem thử đám rận kia đang hoan hỉ ca ngợi cái gì dù hiểu rằng điều gì làm chúng vui sướng thì cũng đi ngược lại lợi ích của đất nước và dân tộc. Vì chưa có thời gian "chiêm nghiệm" cuốn sách này để có ý kiến của riêng mình, tôi xin giới thiệu với bạn đọc một số bài viết đánh giá của các tác giả uy tín (về năng lực, kiến thức, tư duy và sự khách quan) dưới đây.



  1. Lịch sử nhìn qua lỗ đồng xu (về cuốn "Bên thắng cuộc" của Huy Đức)
  2. "Bên thắng cuộc" - món quà Noel kinh hoàng của kẻ Osin khốn nạn
  3. Về sách "Bên thắng cuộc"
  4. "Bên thắng cuộc" đưa sự kiện với dụng ý chủ quan nhằm bóp méo sự thực



Trong bài ben-thang-cuoc-vi-sao-toi-viet?, Huy Đức viết:
“Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ”; “Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách”; “Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc”.

Những sự thật quan trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước ai cũng muốn biết, có điều những chuyện con con liên quan đến chính bản thân ta đây còn bị xiên xẹo tùm lum thì những sự thật lớn lao đâu dễ biết được.

Theo triết học, có cái tận mắt ta nhìn thấy cứ tưởng là sự thật nhưng lại không phải, bởi nó là hiện tượng chứ không phải bản chất. Như than chì và kim cương, người không biết cứ tưởng là hai chất khác nhau, nhưng thực chất chúng lại cùng là các bon. Có những chuyện người thật việc thật vẫn không phải là sự thật bởi chúng chỉ là những mẩu của sự thật mà thôi. Trong khi đó với tôi, sự thật cũng vẫn chưa phải là lịch sử, không phải cái sự thật nào cũng là lịch sử, bởi với mênh mông sự thật trong đời sống thì lịch sử nào chứa cho đủ?
Vậy lịch sử là gì?

Có lẽ chỉ sự thật nào có thể trở thành văn hóa, những sự thật chủ chốt, bao quát, có thể nói lên được bản chất của vấn đề, giúp cho hậu thế những bài học bổ ích thì sẽ thành lịch sử. Tất nhiên không chỉ có những bài học về sự thành công mà có cả những bài học về sự thất bại. Vì vậy những từ “minh triết”, “hiền minh” là đúng nhất dùng để chỉ những phẩm chất cần phải có của một nhà viết sử. Người ta cần phải thấu suốt hết mọi lẽ, với tấm lòng thiện đức, thì mới có thể viết được sử.

Còn Huy Đức cũng có tham vọng viết sử thì có cái gì?

Đó là một chú bé sau giải phóng bị lóa mắt bởi: “Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe … Những chiếc máy Akai, radio cassettes”. Từ đó thấy: “Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi”.

Tôi khi ấy gần như thuộc lớp bộ đội sau cùng, cũng kịp trực tiếp tham gia chiến dịch HCM. Từ rừng về tôi cũng thấy SG to đẹp, nhưng có lẽ tôi là số rất ít bộ đội không đi lùng mua khung xe đạp, búp bê, radio cassettes, mà cái mong ước lớn nhất của tôi lúc ấy là được về thăm nhà và được vào đại học, chỉ thế thôi!

Huy Đức, đến tận 1983 mới “có một năm huấn luyện ở Sài Gòn… Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh””, để rồi với cách nhìn ấy đã viết nên cuốn sách: “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc”.

Đó thực sự là cách nghĩ từ một cái nhìn thiển cận. Và với cách nhìn ấy, cái nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu như thế thì sẽ viết được cái gì?

Trước khi phân tích cụ thể, ta thử xem qua dư luận về cuốn sách của Huy Đức.
Thật kỳ lạ cả phía “ta” lẫn “địch” đều có người chê Huy Đức dữ dội thì có nhóm nhỏ “xuất thân việt cộng” nhưng đang làm thuê cho những ông chủ thuộc “thế giới tự do” thì rất ca ngợi cách nhìn lộn ngược của Huy Đức.
Trong bài ĐỌC “BÊN THẮNG CUỘC” CỦA HUY ĐỨC Posted on 10.12.2012 by nguyentrongtao , ông GS TRẦN HỮU DŨNG, con Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nguyên là bác sĩ riêng của Bác Tôn, một người đang dạy học bên Mỹ, viết:
“Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi được biết… Cuốn sách đầy ắp những thông tin mà tôi chưa từng đọc được trong bất cứ sách báo nào đã xuất bản. Huy Đức là một trong số rất ít (có thể đếm trên ngón một bàn tay!) ký giả Việt Nam hiện nay có khả năng nghiệp vụ cao, dày dặn kinh nghiệm, và nhất là có biệt tài tạo sự tin cẩn ở những người được phỏng vấn về những sự kiện vô cùng “nhạy cảm”, thậm chí “thâm cung bí sử”… “Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền thoại” về một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Trần Hữu Dũng cũng viết: “Trong chương 1, Ba mươi Tháng Tư, Huy Đức đặt một tiểu tựa khiến người đọc ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng vì biết tác giả là người trưởng thành từ bên kia nhưng dùng hai chữ Tuẫn Tiết đặt cho câu chuyện của các tướng lãnh bên này tự kết liễu đời mình trong ngày chế độ sụp đổ… chỉ có thể dùng hai chữ “tuẫn tiết” chứ không thể có từ nào hay hơn”.

Việc Trần Hữu Dũng khen Huy Đức dùng chữ “tuẫn tiết” để ca ngợi dũng khí của mấy người tự sát, vậy phải chăng đó cũng là cách gián tiếp chê gần một triệu người lính chế độ cũ khác không tự sát là hèn nhát? Còn tôi thấy mấy vị tự sát chẳng cần phải uổng mạng như thế nếu các vị biết Nixon đã thể hiện quyết tâm của Mỹ dứt khoát bỏ rơi VNCH khi quát lên với Kissinger rằng (theo baomoi.com): “Tôi không biết liệu lời đe dọa đó có đủ không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ việc chết tiệt gì - hay cắt đầu hắn ta, nếu cần thiết” (I don't know whether that threat goes far enough or not but I'd do any damn thing that is -- or cut off his head if necessary) khi nói về việc TT Thiệu không muốn ký vào Hiệp định Paris. Đó cũng chính là cái lý do khiến tướng Nguyễn Cao Kỳ từng thốt lên: “Đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”; rồi: “Việt Cộng gọi chúng tôi là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi là những con bù nhìn của người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân chính của nhân dân Việt Nam”. Vậy thì các vị đã tuẫn tiết thì tuẫn tiết vì cái gì? Vì cái gì Huy Đức đã tôn vinh họ? Và vì cái gì Trần Hữu Dũng ca ngợi Huy Đức?

Nguyễn Giang, hiện là Trưởng Ban Việt Ngữ BBC, tra trên mạng thấy: “Name: Nguyen Giang. Born 1972 in Son La, Vietnam. High school and first year of law studies in Hanoi”, nghĩa là cũng là “con Việt cộng” ở Sơn La. Trên bbcvietnamese.com, trong bài Về cuốn 'Bên Thắng Cuộc', Nguyễn Giang viết:
“Các đoạn có giá trị nhất, nhiều tư liệu mới nhất và tổng hợp được cách nhìn của các bên nhất phải kể đến giai đoạn lực lượng cộng sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn, và thời kỳ quân quản rồi thống nhất hai miền.
… ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ nghẹn đi vì các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh chứng kiện cận cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ đội về và từ Bắc vào sống trong Nam…
Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt Nam, nhất là giới tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu bao vây, hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động”.

Trong bài CÓ PHẢI MÁC LẠI LÀM KHỔ DÂN VĂN GIANG? phản bác TS Phạm Ngọc Cương ở Canađa, tôi đã viết: “Từ cái nhìn phi lịch sử, từ chỗ chê bai cuộc sống ở trong nước, ông Cương ca ngợi Canada, nơi ông là một kẻ tha phương cầu thực. Mọi chuyện ông nói đều đúng cả, nhưng đó chỉ là tư duy “phản xạ có điều kiện” của Pavlov, chứ không phải là cái nhìn biện chứng của một tư duy triết học”, thì có lẽ ông Giang, ông Dũng cũng giống như ông Cương thôi, cũng được những “điều kiện” ở Anh, ở Mỹ đã tạo ra những “phản xạ” trong nhận thức, nên các ông đã ca ngợi Huy Đức viết ngược như thế. 
Ngẫm lại cái số phận thật tai quái, tôi đây mà cũng lại có lần “hân hạnh” được dùng tiệc cùng với “ông Trưởng ban” Giang nói trên và cả “nhà cách mạng Lê Công Định” nữa tại quán Nga trên đường Tôn Đức Thắng, Q I, TPHCM!

Ngược lại cái tư duy “phản xạ có điều kiện” nói trên, trên haingoaiphiemdam, một chứng nhân được Huy Đức cho vào “trang sử” của mình là Lê Quang Liễn, một Thiếu Tá Quân lực VNCH, đã phản đối Huy Đức:
“Một nhà báo chân chính phải viết cho sự thật, vì lương tâm thì đừng bao giờ gán, chụp cho những người vắng mặt những gì vì lợi ích cho bản thân, phe nhóm”.
MX Phạm Văn Tiền ĐĐ F Khóa 20 Đà Lạt:
“Kính thưa quý diễn đàn.
Gần đây dư luận xôn xao về một quyển sách của tác giả Huy Đức, người từ chế độ cộng sản viết về tài liệu lịch sử của cuộc chiến vừa qua. Qua quyển sách có tên là " Bên thắng cuộc", nhìn toàn diện tác giả dường như muốn diễn đạt và dẫn chứng những điều thật sự xảy ra sau cuộc chiến, nhưng sự thật đó lại là những điều không thật… Những dẫn chứng bịa đặt mặc dầu với những tên khác nhau, nhưng tác giả Huy Đức phải hoàn toàn chịu trách nhiệm những điều không có thật trong quyển sách của mình. Qua quyển sách "Bên thắng cuộc" của tác giả Huy Đức là những viên thuốc đắng có bọc đường”.

Ở đoạn này Huy Đức rất giống Bùi Tín. Bùi Tín từng "chiêu hồi", cố công "lập công chuộc tội" nhưng vẫn bị chửi rủa lăng nhục, thậm chí có người còn tố cáo Bùi Tín giết người!

Về phía “ta”, trong bài Cóp nhặt ý kiến bình về “Bên thắng cuộc” Posted by butluan on Tháng Mười Hai 21, 2012 . Về chuyện Huy Đức “tố cáo” nhà nước đầy đọa binh lính chế độ cũ sau giải phóng, bạn Pham Truong Son – truongsonnd2007@yahoo.com.vn viết:
“Các ông sang bờ bên kia đại dương đã gần 40 năm, mà vẫn còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn, cá nhân ngày đêm kêu gào chống phá, lật đổ. Huống chi chiến tranh vừa kết thúc, quản lý rồi mà có khi các ông vẫn còn làm loạn ấy chứ, để các ông tự do thì không biết thế nào!”
Bạn Hoàng Việt Vũ:
“… Trại cải tạo là chuyện mà Nhà nước cần phải làm. Chủ yếu là để đảm bảo an ninh trật tự trong nước, tránh việc chống phá của các thành phần thuộc chế độ cũ trong hoàn cảnh khi mà nhà nước còn quá nhiều khó khăn, nếu phải chống cả thù trong lẫn giặt ngoài thì thành quả cách mạng sẽ đều bị sụp đổ.
Mặt khác, nếu so sánh giữa trại cải tạo của chế độ và những nhà tù chế độ cũ như nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc, công việc cuốc đất hằng ngày, tăng gia sản xuất, học tập chính trị có thấm gì so với những kìm kẹp, nhận nước, đóng đinh, cưa chân mà chế độ cũ đã gây ra đối với những người cách mạng.
Hãy nhìn xem, những người mà cha mẹ họ ra khỏi tù với hàng trăm vết thương, ra tù với đôi chân bị cưa 7 lần, những người thân tìm thấy xác của con cháu mình trên đầu vẫn còn hàng chục cây đinh dài cả chục cm. Họ mới là người có quyền căm thù, có quyền lên tiếng, nhưng họ vẫn im lặng và đặt lại quá khứ sang một bên, họ không quên đâu, họ vẫn nhớ, nhưng đối với họ tương lai thì quan trọng hơn nhiều cái quá khứ đau đớn ấy".
Bạn Trần Hạ Long:
“Tôi định không viết nhưng thấy nhiều người than thở thở than theo ông Huy Đức quá nên cầm lòng không được
Này các bác, tôi là dân Bắc Kì đây, gia đình tôi có cả người từng làm làm ở hành chánh quốc gia đấy và từng làm dân biểu nữa, cũng đi học nhưng ở lại không vượt biên, cũng chả sao cả… Tôi kể các bác nghe nhá:
…Ông họ tôi là thiên chúa giáo dân, ông tôi chiến đấu chống Pháp tại hà nam, ông tôi là công dân nước Việt chống xâm lược nhưng chưa hề xâm lược nước Pháp nhưng nước Pháp vĩ đại mang ông tôi ra phơi nắng trong khi ông tôi bị thương nặng vì can tội ” làm Việt Minh” và ông tôi chết trong đau đớn, nhưng còn hơn một số kẻ cúc cung vì nước Pháp thà làm trâu ngựa hơn làm người tự do…
…Thả tù binh xuống biển, bẻ răng đập hàm… không thủ đoạn đê hèn nào không làm… Nhưng các bác lờ tịt đi… muốn chối tội à. Tôi biết còn nhiều bác từng nhuốm máu nay tỏ ra cao đạo phê phán cộng sản, nhiều bác lính kiểng tỏ ra anh hùng.
Xin các bác nghĩ lại cho một ít”.

Còn với tôi, bộ sách của Huy Đức rất dày, riêng cuốn I đã hơn 800 trang, nên bài này tôi chỉ muốn chỉ cho Huy Đức biết thực chất cái “nền văn minh” của Miền Nam trước giải phóng là như thế nào thôi.
Như trong bài về HUỲNH NGỌC TUẤN, HUỲNH THỤC VY tôi đã viết:
“Về sự tươi đẹp của chế độ VNCH, Huỳnh Ngọc Tuấn cũng như không ít người từng ca ngợi và hay mang ra so sánh với Bắc Việt nghèo khổ, có điều họ không hiểu rằng, đó chỉ là “lợi nhuận” của việc chống cộng mà cư dân ở những vùng đô thị miền Nam được hưởng từ việc đánh đổi bằng máu của dân Bắc bởi “chiến tranh phá hoại” và máu của dân cư vùng nông thôn. Theo "Fire In The Lake" by Frances Fitgerald, Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139, khi viết về Diệm, tác giả cũng viết: “Đối với hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thành phố ký sinh trùng đó đã trở nên béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương. (For him, the modern world was Saigon, that parasite city that fattened from the blood of the countryside and the lucre of the West)”.

Cụ thể trong Viện trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam trên Wikipedia theo Nguyễn Nhật Hồng Trưởng bộ phận B29:
"Toàn bộ tiền viện trợ và tiền giúp đỡ của quốc tế cho Việt Nam đánh Mỹ đều tập trung về một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp nhận Sáu trăm bảy mươi tám triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn) (678.700.000 USD), trong đó hơn sáu trăm hai sáu triệu đô la là tiền viện trợ đặc biệt, hơn hai mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ chức và nhân dân quốc tế ủng hộ, gần 21 triệu đô la là tiền lãi kinh doanh chuyển đổi và gửi ngoại tệ ở nước ngoài, gần bảy triệu rưỡi đô la là lãi từ tiền dự trữ của chiến trường sau giải phóng...".

Tài liệu của CIA giải mật của Hoa Kỳ thì đưa ra những con số ước tính qua 20 năm, Liên XôTrung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự).

Còn Viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa:
“Theo nguồn do Việt Nam thống kê thì tổng viện trợ cho VNCH từ 1954 đến 1975 là trên 26 tỷ USD. Theo nguồn của Hoa Kỳ thì tổng viện trợ Quân sự cho VNCH từ 1955 đến 1975 là 16,762 tỉ USD. Lưu ý số vũ khí và viện trợ trên chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chiến phí của Mỹ ở Việt Nam. Nó chưa bao gồm số vũ khí và chiến phí do quân đội Mỹ trực tiếp sử dụng trong giai đoạn tham chiến trực tiếp 1964-1973, mà theo thống kê là trên 141 tỷ USD chi phí trực tiếp, tương đương 686 tỷ USD theo thời giá 2008. Mặt khác, nhà kinh tế Steven ước tính tổng chi tiêu cuối cùng của Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt Nam sẽ lên tới 925 tỷ USD; gấp 3,8 lần chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của Mỹ cho thế chiến thứ hai”.

Như vậy tổng chi phí của Mỹ cho chiến tranh VN gấp hơn 130 lần mà phía VNDCCH đã nhận được viện trợ. Vì thế cái “nền văn minh” mà Huy Đức thấy qua “Mấy chiếc xe đạp bóng lộn”; “cặp nhẫn vàng chóe”; “Những chiếc máy Akai, radio cassettes”; rồi: “rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc” v.v… đều có nguồn gốc từ “925 tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc chiến ở VN, kèm theo 58000 nhân mạng nữa, để rồi mất trắng trở về.

“Tiến sỉ Nguyễn Tiến Hưng đưa ra một vài thí dụ và dẫn chứng của sự kiện lịch sử tiêu biểu nhưng vô cùng đau đớn cho chánh quyến VNCH khi lệ thuộc Mỹ. Về kinh tế nội việc xin Mỹ viện trợ gạo là cả một vấn đế phức tạp, phiền toái mà trăm dâu đổ đầu tằm VNCH phải chịu. Cứ mỗi năm vào 16-5 mùa giáp hạt, thì kho gạo VN hết, từ tổng thống đến chánh phủ phải chạy đôn chạy đáo để cầu viện. Câu viện phải qua 6 bước. Xin Hành Pháp cấp, Quốc Hội chuẩn chi, giải quyết vận chuyễn,. Vận chuyễn theo luật viện trợ Mỹ phải đấu thầu chuyên chở. Ông Chủ tịch Ủy Ban chuẫn chì có công ty hàng hải “ bồ bịch” muốn công ty của mình được thầu. Làm không khéo, đổ bể các nhà thấu khác la lên thì VNCH mang tiếng xấu, mà không làm cho công ty bồ bịch của Ông thì chuẩn chi khó khăn hay bị cắt giảm. Chở gạo từ Louisiana lên San Fran, từ San Fran về VN. Nghiệp đoàn công nhân bốc dở biết Quân Đội ở Miển Trung đang cần gạo, họ hay đình công để làm tiền. Chánh quyền VNCH không thể trả tiền vòi vĩnh mà cũng không thể ngăn cản quyền đình công của nghiệp đoàn, trong khi Quân Đoàn I xếp hàng xe chờ gạo, lính gần hết quân lương. Chánh quyền phải nhờ các thương gia gạo dàn xếp. Đó là chưa nói gạo viện trợ về bán rẻ thiệt hại cho nông dân VN”.

Chính Nguyễn Văn Thiệu còn có những câu nói để đời rất hồn nhiên thừa nhận việc mình làm một ông Tổng thống “bù nhìn” như sau:
- Mỹ còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống cộng;
- Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!

Không chỉ lệ thuộc về kinh tế mà về chính trị chế độ của Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn bị lệ thuộc. Khi Mỹ nhận ra sai lầm trong cuộc chiến ở VN, như việc “cắt lỗ” trong đầu cơ chứng khoán, chính phủ Mỹ đã “vắt chanh bỏ vỏ” Nguyễn Văn Thiệu không thương tiếc. Trong Nguyễn Văn Thiệu – Wikipedia tiếng Việt:
“trong thư của Tổng thống Nixon gửi ông vào ngày 16 tháng 1 có đoạn: "Tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt hiệp định vào ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói trên một mình. Trong trường hợp đó tôi phải giải thích công khai rằng chính phủ của ông cản trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự thay đổi nhân sự trong chính phủ của ông khó mà nói trước".

Trong bức thư đề ngày 6/10/1972, Nixon còn ngầm đe dọa: "Tôi yêu cầu ông cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968...".

Henry Kissinger về sau trong hồi ký của mình đã cho rằng: “Nguyễn Văn Thiệu đã điều hành quốc sự theo một kiểu "tàn bạo", "xấc láo", "ích kỷ, độc ác" với những "thủ đoạn gần như điên cuồng" khi làm việc với người Mỹ”; Kissinger cũng tiết lộ rằng, khi nói về việc Nguyễn Văn Thiệu ngăn cản Mỹ ký hiệp định Paris, Tổng thống Nixon đã giận dữ thốt lên: "Ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hãy tin lời tôi."

Một “nền văn minh” luôn tùy thuộc vào chế độ chính trị và tiềm lực kinh tế. Vì những lẽ trên đây mà người ta đã cho cuộc sống ở Sài Gòn trước 75 chỉ là “phồn vinh giả tạo”. Mà nền kinh tế ấy cũng lại: “ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường”.

Đó là những thông tin chỉ bấm một phát là ra trên Google, vậy mà Huy Đức đến tận bây giờ còn mù quáng thì thử hỏi còn tham vọng viết lách cái gì?

Còn cuộc sống ở ngoài bắc trước 1975, Huy Đức cần phải hiểu nếu không có chiến tranh, nếu miền Bắc không phải “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả vì Miền nam ruột thịt” thì chắc chắn mức sống 2 miền Nam, Bắc không quá chênh lệch như thế!

Cũng liên quan đến Kissinger, cũng về sự lệ thuộc nước ngoài, Lê Mai trong bài Ba bảo bối của Lê Đức Thọ viết về Lê Đức Thọ, một nhân vật mà Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cho "Ông ý là nhà ngoại giao khổng lồ; nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đánh giá là một “phái viên chiến lược toàn năng, có thể ví như một tướng quân tài ba thao lược” (VietNam.net); còn Huy Đức trong cuốn sách của mình đã cố công bôi đen hình ảnh của ông bằng những tư liệu không chính thống; nhưng thực tế, với Nguyễn Văn Thiệu, ta càng thấy nhục cho người Việt mình trước người Mỹ bao nhiêu thì với Lê Đức Thọ, ta lại càng tự hào bấy nhiêu. Lê Mai đã viết:
“Kissinger viết: “Tóc hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại cán màu xám hoặc ma-rông. Đôi mắt to và sáng, ít khi để lộ sự cuồng tín đã thúc đẩy ông hồi mười sáu tuổi đi theo phong trào du kích cộng sản chống Pháp. Ông bao giờ cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao giờ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết ông muốn gì và phục vụ lý tưởng của ông một cách tận tụy và khéo léo”.
Kissinger dường như tin rằng chìa khóa để giải quyết vấn đề VN là ở Mátxcơva và Bắc Kinh.
- Ngài cố vấn qua Bắc Kinh, Mátxcơva, chắc đã được các bạn của ngài thông báo về ý kiến của chúng tôi trong đợt đàm phán này - Kissinger khiêu khích.
- Bạn chúng tôi ủng hộ chúng tôi, nhưng không làm thay chúng tôi. Mấy năm qua các ông cứ chạy vay chỗ này chỗ kia, chỉ làm phức tạp thêm vấn đề. Trong một ván cờ, quyết định thắng thua phải là người trong cuộc, không có cách nào khác. Chúng tôi độc lập giải quyết vấn đề của chúng tôi - Lê Đức Thọ trả lời.
Khi Kissinger thông báo, Sài Gòn sẽ không ký, Lê Đức Thọ nói với Kissinger: “Năm năm nay không bao giờ ông để tôi tin ông lấy một lời. Ông hứa danh dự rồi chính ông lại dí ngay lời hứa đó xuống chân ông. Ông lật lọng hết mức”.
Kissinger bực lên và đáp:“Ông nói là lời của tôi vô giá trị, thế thì ngồi đây đàm phán làm gì. Tôi phải tính đến chuyện lần sau để người khác đàm phán với ông, tôi với ông không đàm phán với nhau nữa”.
Kể cũng lạ, đi đàm phán với đối phương là giáo sư Đại học Harvard lừng danh mà Lê Đức Thọ nhiều khi ứng xử như với cán bộ của mình, nghĩa là tiếng oang oang, chỉ mặt lên tay, thậm chí còn nói thẳng ra rằng Kissinger là kẻ nói láo!
Một hôm, trước bữa nghỉ ăn trưa, Kissinger nói với Lê Đức Thọ:
- Hiện giờ ông cố vấn đàm phán với tôi thì ông nói như mắng tôi; sau này kết thúc đàm phán, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình rồi, thì ông mắng ai?”.

Tóm lại, Bên Thắng cuộc là cuốn sách được Huy Đức viết rất kỳ công, chi li, nhưng những cái bình thường thì đều đã được đăng tải trên sách báo chính thống, còn những cái khác thường thì cũng đã đăng tải trên mạng. Riêng tôi thì còn biết hơn nhiều lần kể cả số lượng cũng như độ ‘ghê gớm” của những tư liệu, quan trọng là phải biết có cần viết ra hay không mà thôi. Chỉ có điều đặc biệt là Đức khoe do công việc nên đã được gặp và phỏng vấn nhiều nhà lãnh đạo và những cán bộ cao cấp, đảm bảo tính chính xác của thông tin, bởi đều là những chuyện người thật việc thật. Nhưng như tôi đã viết, dù đúng là chuyện người thật việc thật, nhưng nếu chỉ là cái nhìn chủ quan, phiến diện, cục bộ thì chỉ là những mẩu sự thật chứ chưa phải là sự thật. Mà Lịch sử lại cần phải được viết bởi sự minh triết để có thể bao quát thấu suốt, viết ra được bản chất sâu xa nhất của các sự kiện, để đời sau rút ra được những bài học bổ ích. Trong khi đó Bên thắng cuộc lại chỉ xoáy vào cái xấu, cái yếu kém, lại được nhìn nhận bằng một cái tâm tối trí thấp, nên cái mà Huy Đức viết ra không phải là lịch sử với ý nghĩa cao quý nhất của nó mà chỉ là những ghi chép sai lạc. Theo tôi, đây là cuốn sách rất nguy hiểm bởi cái vẻ khách quan, và thái độ điềm tĩnh khi liệt kê chi li các vụ việc; người có thành kiến, người ít hiểu biết và nhất là lớp trẻ rất dễ bị dẫn dắt để tin đó là sự thật!

Với những Chỉ thị về việc “Nói và viết những vấn đề liên quan đến lịch sử và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”, chắc chắn Huy Đức đã vi phạm. Phải chăng Huy Đức không sợ vì đã noi theo Herostratos (‘Ηρόστρατος), một thanh niên thời cổ đại, hy vọng sẽ trở nên nổi tiếng đã phóng hỏa đốt Đền thờ thần Artemis? Chắc không phải vậy, mà Huy Đức chỉ noi theo một số người ở chính nước ta đã nổi danh bằng cách nói ngược. Điển hình như bà Dương Thu Hương mà Đức đã coi như thần tượng từng nói là đã khóc như cha chết trong ngày giải phóng vì thấy đội quân chiến thắng của mình là đội quân man rợ. Có điều bà này cũng xạo, cũng là kẻ như các cụ nói là lá mặt lá trái, cơ hội, vì thực tế, ngày mới giải phóng bà ta không "khóc" mà đã viết truyện “Loài hoa biến sắc” cho “nền văn minh” của SG, cái “nền văn minh” đã làm lóa mắt Đức đó, chỉ là “Một lớp giấy trên chiếc rọ làm hình nhân bị xé rách. Một lớp váng dầu ngũ sắc bị khuấy tan trên mặt nước tù” mà thôi! 
Cuốn Bên thắng cuộc còn rất nhiều vấn đề, nếu còn hứng viết, tôi sẽ viết tiếp. 




Thật ra ban đầu mình cũng ko có ác cảm gì lắm với Huy Đức. Hồi Huy Đức viết bài liệt kê ra những sai lầm trong nhiệm kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì mình cũng đọc và thấy được. Với quyển sách này thì mình cũng giữ open mind thôi. Nhưng sau khi đọc 1 lọat các quảng cáo, giới thiệu quyển sách này và nhất là cái đọan "Vì sao tôi viết" thì thú thật là không ngửi nổi và không tài nào đọc thêm được.

Chú Đông La gọi đây là hiện tượng "nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu" là quá chính xác. Mình thì thấy những luận điệu của Huy Đức quá là "sâu sắc tựa khơi đựng trầu".

Huy Đức đánh giá một nơi có cần giải phóng hay ko qua chiếc xe đạp bóng đẹp, nhẫn vàng, những chiếc máy Akai, radio cassettes do nước ngoài sản xuất. Nói chung là những hiện tượng vật chất phồn hoa đô hội bên ngoài. Những hiện tượng, cảnh tượng màu mè này thì Sài Gòn thời thực dân Pháp đã vậy rồi, đã có từ thời Pháp rồi. Ý Huy Đức là cũng không cần đánh Pháp, Bảo Đại?

Mình đã đánh giá quá cao Huy Đức và "tác phẩm" này khi trước kia mình cho rằng đây là 1 kẻ vô cảm, viết ko đứng trên lập trường của người Việt Nam và lợi ích dân tộc VN, mà trung lập cuội, khách quan phiệt, viết như 1 kẻ bàng quan vô cảm bên ngòai.

Nhưng bây giờ đọc 1 số người bàn về "tác phẩm" này và nghĩ lại thì mình thấy đó là đã đánh giá quá cao. Chứ thực ra cuốn sách này cũng không hề khách quan, không chuyên nghiệp, không trung thực, không hề trung lập. Đưa tin có chọn lọc theo cảm tính và có tính định hướng lệch lạc. Thậm chí có phần viết theo lập trường của bọn cướp nước và bọn bán nước, những kẻ gây nên bao tội ác tang tóc cho đất nước và dân tộc Việt Nam.

Thật là tự bôi tro trát trấu vào mặt mình khi Huy Đức chọn thời điểm 40 năm dấu mốc ĐBP trên không, khi giặc Mỹ gây ra những tội ác khủng khiếp ở miền Bắc VN để xuất bản "món quà Noel kinh hoàng" này. Cũng như "món quà Noel kinh hòang" mà những "quan thầy hụt" mà Huy Đức ao ước phục vụ năm xưa đã rải lên đầu lên cổ dân Hà Nội và miền Bắc.

Lờ tịt đi vai trò của giặc Mỹ, lờ tịt đi tội ác của Mỹ ngụy. Đây gọi là trung lập khách quan? Nếu muốn trung lập khách quan thật sự thì những tội lỗi của các bên phải được đưa lên đầy đủ. Đàng này Huy Đức viết theo kiểu 1 chiều, phiến diện, cố tình thiếu sót, có tác dụng chạy tội cho giặc. Làm giảm nhẹ tội ác của giặc cũng đã đáng lên án, đằng này Huy Đức hòan tòan lờ tịt đi để chạy tội cho giặc.

Những "Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra… Những chiếc máy Akai, radio cassettes" phồn hoa đô hội đó là phục vụ cho dân Sài Gòn, dân miền Nam, hay là để phục vụ cho những kẻ nước ngoài và một bộ phận nhỏ người bản xứ hưởng sái ăn ké, có lợi ích gắn chặt với giặc?

Huy Đức hòan toàn lờ đi những thân phận khác, hàng chục ngàn con lai Mỹ, trẻ mồ côi, người nghiện ma túy, gái mại dâm, những thân phận đau khổ lầm than trong cái căn cứ quân sự khổng lồ ở SG, kẽm gai, nhà tù khắp nơi, đầy lính Mỹ và bọn Tây. Những người VN chịu những tội ác Mỹ ngụy. Những người bị lính Mỹ, lính ngụy hiếp dâm. Những người biểu tình bị lính Mỹ và cảnh sát ngụy dùng súng đạn, vòi rồng, dùi cui, lựu đạn cay, roi điện trấn áp, bắn chết. Những sân trường đầy máu tươi và nước mắt. Bao nhiêu người đã hy sinh, đã ngã xuống trước họng súng Mỹ ngụy. Bao nhiêu người đã chết trong nhà tù Mỹ ngụy.

NHỮNG ĐỒNG BÀO ĐÓ KHÔNG ĐÁNG ĐƯỢC GIẢI PHÓNG HAY SAO HẢ? ĐÓ LÀ TRUNG LẬP HAY KHỐN NẠN HẢ HUY ĐỨC?

Đọc cái đọan văn sặc mùi ngụy Sài Gòn vichoco chống cộng cực đoan, sặc mùi cha con Hùynh Thục Vy đó là ko thể nào đọc tiếp nổi. Từ đó suy ra những người viết bài quảng cáo cho sách này có thể chỉ là những kẻ được hứa ăn chia tiền bán sách (sách này Huy Đức tự xuất bản ở Boston Mỹ, rao bán online).

Huy Đức có phỏng vấn, hỏi, nói chuyện, đưa lên những đọan trung thực của những người Mỹ và trong chính quyền SG nói gì về cuộc chiến ko, về vai trò của người Mỹ, về tội ác của người Mỹ ko. Huy Đức có bao nhiêu lần dự, tường thuật những họp mặt, hội thảo của các biệt động Sài Gòn - Gia Định ko? Huy Đức đã xem những phim tài liệu nói về lực lượng biệt động Sài Gòn chưa? Huy Đức có đọc những tài liệu Mỹ để biết do đâu mà Mặt Trận làm nên được một Mậu Thân 1968 cả miền Nam nổi dậy hay không? Họ hầu hết là người miền Nam và trong đó phần đông chính là người Sài Gòn, người Sài Gòn họat động và chiến đấu ngay tại SG.

Ở miền Nam và SG nơi nào cũng có người dân ủng hộ Mặt Trận, cũng có cảm tình viên VC, cũng có biệt động và dân quân - tự vệ ở khắp mọi nơi. Những người mà bọn ngụy hay gom lại gọi chung một cách chụp mũ là "VC nằm vùng". NHỮNG NGƯỜI NÀY Ở NGAY TRONG LÒNG GIẶC, SINH SỐNG NGAY TRONG LÒNG CÁI NƠI CẦN GIẢI PHÓNG VÀ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG ĐÓ HUY ĐỨC!

Có cần sách giáo khoa nào nói về miền Nam hay không? Khi chính dân miền Nam ngày ngày nhìn thấy bọn giặc cướp đi giết người cướp của đốt nhà, đi càn quét khắp làng này đến xã khác, giết sạch phá sạch đốt sạch, "lê máy chém" khắp nơi, những tòa án phát xít, bom và chất độc hóa học trút lên đầu, hiếp dâm, hiếp xong rồi giết, cả những bé gái cũng ko tha. Các ông lão bà cụ bị giết sạch. Hàng trăm cuộc thảm sát đã xảy ra ở miền Nam. Chúng nó giơ thủ cấp của những người dân thân cộng lên chụp hình quay phim khoe khoang. Cắt tai, xẻo vú, xẻo thịt. Địa ngục Côn Đảo với những chuồng cọp chuồng bò.

Có cần sách giáo khoa nào hay ban tuyên giáo hay loa phường nào nói về miền Nam không? Khi các bộ đội du kích đến nhà dân xin ở nhờ, xin giúp đỡ thì có cần dân tuyên huấn tuyên giáo nào đi theo không? Không có dân miền Nam ủng hộ, không có dân miền Nam chống Mỹ ngụy thì những chuyến hàng chuyến người qua ngã Trường Sơn qua ai ra đón nhận, rồi ai che giấu cho? Hàng tấn vũ khí để trong mấy căn nhà của ai ở SG?

Huy Đức bảo những người Sài Gòn, người miền Nam, sống trong lòng địch, ăn ngủ hàng ngày ngay tại quê hương họ, chính tận mắt nhìn thấy, chứng kiến tội ác của bọn xâm lược và bọn phản quốc hàng ngày là bị Đảng, bị Mặt Trận "lừa phỉnh" về miền Nam?

Huy Đức còn liêm sỉ thì hãy tìm đến và quỳ xuống tạ tội trước 29.220 Bà mẹ Việt Nam anh hùng (những phụ nữ có ít nhất 3 liệt sĩ là bản thân, chồng, hoặc con trai trong gia đình) người miền Nam (nhiều hơn gấp 3 lần bà mẹ miền Bắc) còn đang sống. Và đốt bỏ hết những cuốn sách bất nhân bất nghĩa này trước mặt những bà má miền Nam anh hùng.

Nội dung thì thiếu sót, phiến diện, 1 chiều, không trung thực, cắt xén, xào nấu. Thể hiện lên một tư duy tay sai nô lệ. Những lẽ này làm mình nghi ngờ tính lương thiện và động cơ của cuốn sách.

Tại sao miền Nam cần được giải phóng và phải được giải phóng? Như vậy thì phải hỏi sau 1975 miền Nam đã được giải phóng khỏi những gì. Mình lười nên xin trích dẫn lại một đọan trong phần tổng kết của bài Hùng ca ĐBP trên không và những thế cờ chiến lược:



Miền Bắc không còn tiếng hú báo động từ loa phường kêu gọi đồng bào mau xuống hầm trú ẩn, không còn cảnh tản cư tránh bom đạn, không còn cảnh mưa bom bão đạn kẻ thù giáng xuống, không còn những ngôi nhà, chung cư, khu phố, bệnh viện, trường học, nhà máy, nhà thờ, chùa chiền, di tích lịch sử bị bom giặc tàn phá.

Miền Nam không còn bóng giặc, không còn tiếng bom đạn đì đùng, không còn những ngày đêm vùng vẫy trong trại tập trung "Ấp Chiến Lược", không còn những ngày đêm bị càn bị quét, không còn những trận càn, ruồng bố, khủng bố trắng, thảm sát man rợ và những tội ác dã man mà nhiều người gọi là những tội ác diệt chủng, chống loài người.

Không còn những thảm cảnh giết người đốt nhà, "ba sạch" (phá sạch, giết sạch, đốt sạch). Không còn những cảnh phụ nữ, trẻ con bị hiếp rồi giết. Không còn những cảnh những bà cụ, ông lão bị lùa xuống mương và xả súng giết tập thể. Không còn những tên giặc giơ thủ cấp của người Việt yêu nước khoe khoang trước ống kính. Không còn những đạo luật giết người, "lê máy chém" khắp nơi.

Không còn bọn mật vụ Phượng Hoàng hàng ngày hàng giờ lùng sục bắt cóc, thủ tiêu. Không còn những tên lính giặc không coi người Việt là loài người như sĩ quan Mỹ Celina Dunlop đã tự bạch trên kênh BBC Anh ngữ tháng 3 năm 2008: "Most people in our company didn’t consider the Vietnamese human". Không còn những thảm kịch cắt đầu, xẻo tai, xẻo thịt, xẻo vú phụ nữ. Bom đạn và chất độc hóa học không còn rơi lên trên đất miền Nam, người miền Nam.

Không còn những bi kịch lính Mỹ đối đãi bất công, đánh đập, giết chóc một bộ phận lính ngụy, sĩ quan ngụy, giết "tổng thống" ngụy. Không còn những lần người Mỹ thí nghiệm và lùa lính ngụy đi vào đất chết. Không còn cảnh tượng lính Mỹ hãm hiếp, bắt làm nô lệ tình dục vợ con và người thân của lính ngụy. Không còn cảnh những cô gái Sài Gòn phấn son kỹ lưỡng với những chiếc váy không thể ngắn hơn đứng đầy đường công khai giữa ban ngày chào mời lính Mỹ.

Không còn cảnh những căn cứ quân sự nước ngoài đầy kẽm gai mọc lên như nấm, gần 100 vạn quân viễn chinh tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, không coi ai ra gì, tự do cướp - hiếp - giết khắp nơi, xâm hại chà đạp lên quyền con người. Không còn những phận đời trôi nổi của gần nửa triệu con lai Mỹ, trong đó có hàng vạn trẻ mồ côi. Nông thôn và đô thị miền Nam cũng không còn những lần biểu tình bị đàn áp dã man bằng dùi cui, lựu đạn cay, roi điện, súng đạn. Những sân trường không còn đổ máu, không còn những người dân, thanh niên, sinh viên ngã xuống trước quân đội Mỹ và cảnh sát ngụy.


Tóm lại là không còn hàng trăm cuộc thảm sát ở miền Nam Việt Nam, không còn những tội ác của quân xâm lược và tay sai. Không còn những mảnh đời đau khổ, trong đó có cả lính ngụy và người thân, người nhà của họ. Không còn cảnh người Mỹ hòanh hành dẫm đạp khắp miền Nam, muốn giết ai thì giết, từ phụ nữ trẻ em cụ già cho tới "tổng thống anh minh".

Bao nhiêu năm giặc Mỹ ở miền Nam gây ra hàng ngàn tội ác và hàng trăm cuộc thảm sát tập thể. Nhiều đó chưa đủ sao? Không giải phóng thì chừng nào mới giải phóng? Đợi lên đến hàng chục ngàn, hàng vạn thảm sát khác, những Phú Lợi, đạo luật 10/59, Hướng Điền, Thạnh Phong, Sơn Mỹ, chất độc da cam, Phụng Hoàng, Speedy Express, Mãnh Hổ, Thái Bình, Phong Nhi, Phong Nhất, Hà Mỹ, Bình Hòa.... khác?

Đợi đến lúc đó thì những trang này bây giờ đã dài đến mức nào:



Những quan điểm như Huy Đức là vô cùng nguy hiểm cho các thế hệ tương lai. Nó làm lệch chuẩn, lệch lạc bản chất, đánh tráo khái niệm, cào bằng giá trị, đảo lộn trắng đen. Nó cào bằng tất cả và đánh mất đi tính dân tộc, yếu tố dân tộc, sự chính nghĩa của một quốc gia dân tộc tự vệ để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ sự độc lập và thống nhất của mình. Và nó chạy tội cho giặc xâm lược, chạy tội cho những kẻ viễn chinh gây tội ác.

Và nguy hiểm nhất là nó mặc nhiên phớt lờ hoặc coi nhẹ những tội ác đó, coi nhẹ chuyện 1 bọn nước ngòai đem gần 100 vạn quân đến nước ta giết chóc, đốt nhà, gây ra bao nhiêu tội ác tày trời.

Như vậy nó đã đảo lộn nhân văn, giá trị, dẫm đạp lên các giá trị dân tộc, hạ thấp phần người xuống thành con vật, hạ thấp dân tộc VN, hạ thấp người VN xuống ngang hành với nô lệ hoặc con vật gì đó mà bọn lính ngọai bang có thể nói giết là giết, bắn là bắn, đốt nhà là đốt nhà. Là đối tượng của những trò thí nghiệm tội ác. Xem đó là "chuyện bình thường". Mặc định một tiền đề khốn nạn rằng: Dân tộc người ta là dân tộc "thượng đẳng" nên người ta có quyền làm thế, và làm thế là bình thường. Dân tộc Việt Nam mình là dân tộc "hạ đẳng" nên chúng nó có đối xử với dân mình như con vật thì cũng không sao, "chiến tranh thôi mà".

Những kẻ nào nhẫn tâm "làm sử" theo phong cách bán đứng lương tâm, bán rẻ nhân cách này, và gọi đó là "làm sử", là "trung thực" thì chỉ có hai giải thích: Một là họ không coi bản thân họ là người Việt Nam. Trong khi chính những người nước ngòai, không phải người Việt, lại đồng cảm với nỗi đau của đồng lọai, trong khi chúng nó dửng dưng vô cảm với nỗi đau của đồng bào. Thậm chí là hả dạ, hả hê một cách vô liêm sỉ và thú vật man rợ, mất tính người.

Hai là họ không đủ lòng tự trọng, tự tôn của một con người. Và quả thật khi đối diện với người Mỹ, lính Mỹ, chủ Mỹ thì họ coi đó là quan hệ giữa nô lệ với chủ nhân, hoặc giữa con vật với con người. Chính vì vậy nên họ mới thấy hàng chục ngàn tội ác người Mỹ gây ra cho người Việt là "bình thường", là "không đáng nhắc tới".

Trong khi Huy Đức thừa thời gian và chữ nghĩa để viết những chi tiết linh tinh kiểu "Lê Duẩn nghe tin quân VN tiến vào Nam Vang song chỉ ừ 1 tiếng rồi ngủ tiếp". Hay bịa đặt ra những chi tiết phi lý rẻ tiền kiểu "Lê Đức Thọ khóc lóc quỳ mọp xuống đất xin Lê Duẩn cho lên kế nhiệm". Nhưng 1 dòng nói về trách nhiệm chiến tranh của Mỹ, những tội ác của chính phủ và quân đội Mỹ gây ra ở miền Nam, những nguyên nhân miền Nam cần giải phóng, thì không có lấy 1 dòng. Quá "trung thực"! Quá "trung lập"! Quá "khách quan"!

Một bọn cướp kéo bầy gần 100 vạn tên vào nhà, dày xéo lên miền Nam, giết người, đốt nhà, thảm sát, hiếp dâm. Thì chúng nó lấy kính hiển vi, kính viễn vọng soi rất kỹ, vặn vẹo từng cái lỗi nhỏ của những người đánh cướp ra ngòai, của những nạn nhân bị cướp. Còn bọn cướp thì hòan tòan không thấy đâu. Cứ như bọn cướp chưa từng xuất hiện. Cứ như 60 vạn quân Mỹ và đồng minh chư hầu biến mất vào trong không khí vậy.

Phải giải thích như thế nào khi Huy Đức nói về việc giải phóng miền Nam với cái thái độ hỗn xược rẻ rúng, "đốt đền thờ" như vậy? Những kẻ như vậy đã có tâm địa loài thú rồi thì lấy tư cách gì nói chuyện nhân quyền, quyền con người?


Chiến tranh đã qua đi gần 40 năm, đủ dài để người ta chiêm nghiệm lại lịch sử, trong khi tác giả vẫn chỉ chọn chỗ đứng ở góc độ nhà báo, mà lại không chứng kiến trực tiếp, chỉ nghe người này kể, người kia nói, lấy thêm từ những cuốn sách khác đã xuất bản hay không (chỉ được phổ biến trên mạng) để cung cấp thông tin.

Sự kiện 30/4 cùng những năm đầu giải phóng tư liệu nhiều và phong phú đến độ muốn làm mới nó, chỉ có cách duy nhất là buộc phải bày tỏ nhãn quan của chính tác giả, tức là phải đứng ở góc độ nhà viết sử chứ không phải là anh nhà báo chạy vòng vòng quanh sự kiện, thấy cái gì thì tả cái nấy.

Khoảng một nửa nội dung sách đã từng được đăng trên các báo chí trong nước, mà cách bạn rân chủ gọi là "lề phải", không dám nói là toàn bộ, nhưng cũng phải trên 9 phần 10 nội dung những người có tuổi trong nước đều đã biết, và không ngạc nhiên khi tác giả từng hi vọng xuất bản trong nước.

Tuy nhiên cuốn sách có vài nội dung mà truyền thông trong nước chưa muốn đụng tới (nhưng không phải là khó khi muốn tìm hiểu về nó), đó là câu chuyện của những người vượt biên, 2 cuộc chiến tranh biên giới + quan hệ Việt Nam - Campuchia và vai trò của cá nhân các lãnh đạo trong thời bao cấp.

Trong những trường hợp cụ thể, tác giả lại phải thông qua vài nấc lớp trung gian như đã nói trên, mặt khác tư liệu tràng giang đại hải, dàn trải mông lung, rất khó tóm lược được ý chính của sự kiện mà tác giả muốn tả.

Miềng cũng không thích nhiều đoạn mà câu chữ thiên về mỉa mai, nhưng đó chỉ là cảm nhận cá nhân, hãy nói về nội dung, có thể bàn tới 3 nội dung chính:

- Câu chuyện của những người vượt biên
- 2 cuộc chiến tranh biên giới + quan hệ Việt Nam - Campuchia
- Câu chuyện của những người lãnh đạo

- Đối với câu chuyện về những người vượt biên, không có gì mới, mười mấy năm lăn lộn trên mạng miềng đã nghe, đã đọc nhiều chuyện như vậy, những câu chuyện về trại cải tạo, đánh tư sản, trí thức không được trọng dụng ..v.v...

Đến thời điểm này thì những câu chuyện đó đã cũ, những người đó hiện giờ đã êm ấm ở nước ngoài hưởng tuổi già, con cháu không còn nói tiếng Việt, theo những "cựu thuyền nhân" thì chỉ có "phe thua" quan tâm nội dung này, vì nó là một sự công nhận từ "phe thắng", thôi thì đó là chuyện của các cụ với nhau, để các cụ tự chém gió lấy.

Cuốn sách có kể ra những chuyến vượt biên là có sự chấp thuận của Đảng, cho thấy thái độ của "phe thắng" đối với sự kiện này, cũng là điều chẳng mới mẻ gì.

Nhưng có điều miềnh muốn biết mà rất ít sách báo đề cập, kể cả trong cuốn sách này, đó là câu chuyện của những người ở lại, về tâm tư tình cảm của họ, gần 1 triệu người ra đi, hàng chục triệu người ở lại tìm đường mưu sinh, đó là những người sinh ra thế hệ trẻ năng động ngày nay, là những người định hình xã hội VN hôm nay, chịu hết những khó khăn của đất nước thời đó, nhưng xem ra miềng biết rất ít về họ trừ những câu chuyện chung chung về tem phiếu, bo bo trộn với mỳ chẳng hạn.

- Nội dung về 2 cuộc chiến tranh biên giới: câu chuyện của những người lính, các mối quan hệ quốc tế, mối quan hệ phức tạp giữa Việt Nam với chính phủ Campuchia thời điểm đó, phần lớn đều không mới, có nghĩa là với miềng, đều đã đọc, đã nghe từ lâu.

- Câu chuyện của những nhà lãnh đạo: cuốn sách trình bày có hệ thống (những gì mà tác giả cho là) suy nghĩ của các nhà lãnh đạo đương thời.

Những thứ ảnh hưởng tới chính sách: ý thức hệ, kinh nghiệm quá khứ, ảnh hưởng của Trung Quốc và Liên Xô, các kinh nghiệm thực tế; những trăn trở giữa một bên là giáo điều với một bên là thực tiễn, một phần lớn trong nội dung này là những chính sách đã biết qua báo chí chính thống.

Phần còn lại là ảnh hưởng cá nhân của từng lãnh đạo lên các chính sách này, cho dù chưa kiểm chứng được, nhưng khá giống với những gì miềnh đã biết về con người, cách nghĩ và cung cách ra quyết định thời đó.

Phần này gồm nhiều chuyện cung cấm và không cần mấy động não khi đọc, tuy tác giả viết rằng những câu chuyện riêng tư đôi khi cũng giúp làm sáng tỏ phần nào lịch sử, nhất là những tình huống cá nhân liên quan đến các quyết định làm thay đổi lịch sử.

Vậy nhưng phải cố gắng lắm lắm mới lướt qua được phần này bởi trong khối tư liệu đồ sộ, tác giả luẩn quẩn, bùng nhùng mãi không thể thoát ra được những câu chuyện riêng tư hay tình huống cá nhân, để cho người đọc thấy được phần nào lịch sử trong đó, nhất là đoạn về ông Võ Văn Kiệt, có thể nói tách đoạn này riêng ra thì sẽ có một cuốn "hồi ký Võ Văn Kiệt", nhưng hồi ký thì khác, còn ở đây tác giả dùng vào ý đồ khác.

Phủ lên tất cả dấu ấn Nguyễn Văn Linh hay bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt (tác giả dùng cụm từ tam nhân Mười- Anh- Kiệt) là những đánh giá nhìn nhận đầy thành kiến với Nguyễn Văn Linh, trường hợp này đặt trong bối cảnh một cuốn "hồi kí Võ Văn Kiệt" thì còn có thể chấp nhận được nhưng khi đưa vào cuốn sách này, nó trở nên không đáng tin bất chấp cứ liệu lịch sử có chính xác đến đâu.

Trường hợp Lê Đức Thọ, được tác giả tả là đã quỳ xuống chân Lê Duẩn nhưng bị Lê Duẩn hất ra: “Anh lạ thật, tôi đã từ chối rồi. Những khi nào cần nổi danh là anh cứ xin tôi, đi Paris, rồi đi miền Nam khi sắp giành chiến thắng. Tôi đã nói rồi, Trường Chinh”

Xét về quan hệ cá nhân (người với người) thì cụ Lê Duẩn còn phải e dè cụ Lê Đức Thọ (cụ LĐT họ Phan chứ không phải họ Lê) vài bậc, cỡ 'tạo ra vua' mà quỳ xin ư? Đúng là tư duy hạng đầy tớ!

Xin đi Paris ư?

Nếu Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Duy Trinh.. đủ tầm đấu với Kissinger thì dẫu Lê Đức Thọ có 'xin' cũng chả ai 'cho đi' và giải Nobel Hòa Bình năm ấy đã chả dành cho khách du lịch Lê Đức Thọ (dù cụ từ chối).

Hồi tháng 05 và tháng 12 năm 1978, Lê Đức Thọ có 'xin' ngồi trực thăng bay khắp dải biên giới Tây Nam trực tiếp chỉ đạo chiến dịch chống Khờ me đỏ?

Lê Đức Thọ có 'xin' lên chốt tiền tiêu Hà Giang, Lạng Sơn nếm mật nằm gai thị sát chiến trường?

Các tướng tài chả ai nể phục ai nhưng tất cả răm rắp tuân lệnh người chả có quân hàm là Lê Đức Thọ!

Thời kỳ sau 30/4/1975 có lắm nhân tài nhưng uy lực tuyệt đối chỉ có 1 người: Lê Đức Thọ! Vì có uy lực tuyệt đối nên cụ khinh thường mọi cái ghế phù phiếm, dù là ghế TBT.

Túm các cái lại, luận điệu 'nội chiến' với miệng lưỡi của hạng osin để lấy lòng 'ma cũ' (cũng là osin cho chủ Mỹ) & tâng công làm thủ tục nhập gia, chiêu bài 'Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam', 'Miền Nam là nạn nhân của cộng sản Bắc Việt', 'Cuộc chiến tranh ý thức hệ vô nghĩa, bạo tàn: Cộng sản thắng còn nhân dân thua trắng', 'Nam - Bắc Việt, 2 chư hầu hiếu chiến của siêu cường Xô - Mỹ'.. mà lũ rận ra rả suốt mấy chục năm nay, với họ, độc lập tự do chả ý nghĩa gì, chỉ làm chó cho Mỹ mới là sung sướng, mới là hạnh phúc.

Miềng sẽ không bàn về cuốn sách này nữa, kể từ sau pót này, chỉ dẫn nhận xét từ những người khác, thậm chí bạn nào có nhã hứng bình luận, miềng xin mời tham gia, chỉ yêu cầu các bạn đừng mất văn hóa khi trao đổi.



Một người bạn tôi trích trên FB đoạn này: "Giữa trưa 7-1-1979, khi nghe con rể là Giáo sư Hồ Ngọc Đại đánh thức báo tin, “Quân ta đã vào Phnom Penh”, ông Lê Duẩn chỉ “ừ” rồi ngủ tiếp. Ông Hồ Ngọc Đại nói: “Tôi rất ngạc nhiên. Khi nhận được điện thoại từ Cục Tác chiến tôi cũng không ngờ chuyện long trời lở đất như thế mà ông vẫn ngủ”. Đưa đại quân đến thủ đô một quốc gia khác tưởng nhẹ tựa giấc ngủ trưa của một đấng quân vương nhưng phải mười năm sau Quân đội Việt Nam mới rút được chân ra khỏi đó.
Trích : Đức, Huy (2012-12-06). Bên Thắng Cuộc (Giải phóng) (Kindle Locations 12766-12772). OsinBook2012. Kindle Edition."

Tôi trả lời bạn tôi như thế này:

"Đây là một ví dụ về cách đưa sự kiện với dụng ý chủ quan nhằm bóp méo sự thực của tác giả. Hồ Ngọc Đại tuy là con rể của ông Lê Duẩn nhưng chưa bao giờ làm trong bộ tổng tham mưu hay cơ quan tình báo quân đội. Khi ông ta, một người ngoài quân đội báo cho Lê Duẩn tin đó thì thực tế Lê Duẩn đã biết từ rất lâu. Việc quân đội tiến vào một thành phố không phải là một hành động bất chợt theo kiểu nghe tin tháp đôi ở Mỹ sụp đổ. Mọi diễn biến của việc tiến quân, áp sát thành phố cũng như các thông tin tình báo về lực lượng phòng thủ đều được báo từ trước cho ông Duẩn. Và thực tế là mọi người trong bộ tổng tham mưu đều biết là Phnompenh bị bỏ ngỏ. Quân Khơ-mẻ đỏ không có ý định tử chiến ở đó. Việc xác định Phnompenh bị bỏ ngỏ được biết từ trước khi Hồ Ngọc Đại biết được là bộ đội tiến đến gần thành phố - chứ đừng nói là thời điểm ông ta tin đã chiếm được thành phố. Cách trích dẫn nguồn bằng cách nhấn vào những chi tiết rõ ràng là không liên quan (nhưng có lợi cho dụng ý của tác giả) như con rể của Lê Duẩn khiến cho cuốn sách mất tính khách quan mà lịch sử đòi hỏi phải có."

Ngoài ra, tôi xin thêm vào ở đây như thế này:

Anh Huy Đức ám chỉ rằng việc phải mười năm sau quân đội Việt Nam mới rút là cái giá quá lớn. Nhưng thực tế lịch sử cho thấy, các cuộc chiến tranh du kích thường kéo rất dài và cái giá phải trả không bao giờ nhỏ. Người Pháp mất 9 năm ở Việt Nam rồi phải rút lui trong thất bại. Người Mỹ cũng mất gần 20 năm từ khi ủng hộ trực tiếp ông Diệm tới năm 1975 với một kết cục bại trận. Ở Iraq và Apghanistan, nước Mỹ, sau 10 năm cũng đang rút ra và chúng ta không hề biết các chính phủ đó có đứng vững sau khi người Mỹ ra đi hay không. Ở Apghanistan, người Nga rút đi sau 10 năm đánh nhau và chỉ 2 năm sau đó Taliban treo cổ vị tổng thống do Nga dựng lên.

Cuộc chiến tranh du kích giữa Palestine và Israel đã bắt đầu từ hơn 30 năm trước và tới bây giờ không ai trong số chúng ta có thể chắc được trước khi nhắm mắt, chúng ta thấy được hai bên tham chiến sống hoà thuận với nhau.

Thực tế của 10 năm ở Campuchia là đất nước ta kiệt quệ về kinh tế, và rất nhiều máu đã đổ. Tuy nhiên, thành quả của những hy sinh đó là ngày nay các lãnh đạo của Khơ-me đỏ bị toà án quốc tế xét xử ngay tại Phnom Penh. Người Việt Nam hoàn toàn có thể yên tâm đi lại trên đất Campuchia và ngược lại.

Quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia có những lúc không như ý - ví dụ như chuyện Campuchia cố tình không đề cập tới vấn đề Biển Đông trong cuộc họp gần đây của ASEAN. Tuy nhiên điều đó thể hiện rõ nhất thiện ý của Việt Nam là chúng ta không cố gắng dựng nên một chính phủ bù nhìn ở Campuchia và ta tôn trọng ý chí tự quyết của họ.





Share:

TÌM KIẾM

ĐỒNG HỒ

BÀI ĐƯỢC QUAN TÂM

  • SỐ LƯỢNG BÀI VIẾT
  • SỐ LƯỢNG BÌNH LUẬN
  • SỐ LƯỢNG NGƯỜI XEM

ĐANG GHÉ THĂM

Người theo dõi