Về "Bên thắng cuộc" của Osin: Heo thêm cánh,
gà trụi lông!
Thời gian qua dư luận mạng xôn xao vì cuốn
"Bên thắng cuộc" của Osin Huy Đức, một cựu nhà báo tại Việt Nam. Tôi
cũng không tính đọc cuốn này làm gì vì trong suy nghĩ của tôi, Osin Huy Đức
chẳng qua cũng là một kẻ "chiêu hồi" như Bùi Tín mà thôi. Tuy nhiên,
do độ hot của cuốn sách tôi cũng đã tải về để xem thử đám rận kia đang hoan hỉ
ca ngợi cái gì dù hiểu rằng điều gì làm chúng vui sướng thì cũng đi ngược lại
lợi ích của đất nước và dân tộc. Vì chưa có thời gian "chiêm nghiệm"
cuốn sách này để có ý kiến của riêng mình, tôi xin giới thiệu với bạn đọc một
số bài viết đánh giá của các tác giả uy tín (về năng lực, kiến thức, tư duy và
sự khách quan) dưới đây.
- Lịch sử
nhìn qua lỗ đồng xu (về cuốn "Bên thắng cuộc" của Huy Đức)
- "Bên
thắng cuộc" - món quà Noel kinh hoàng của kẻ Osin khốn nạn
- Về sách
"Bên thắng cuộc"
- "Bên
thắng cuộc" đưa sự kiện với dụng ý chủ quan nhằm bóp méo sự thực
“Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung
thực về quá khứ”; “Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa
gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột
miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là
lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi
thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm
cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975
trong một cuốn sách”; “Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự
thật. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường
đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc”.
Những sự thật quan trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước ai cũng muốn biết,
có điều những chuyện con con liên quan đến chính bản thân ta đây còn bị xiên
xẹo tùm lum thì những sự thật lớn lao đâu dễ biết được.
Theo triết học, có cái tận mắt ta nhìn thấy cứ tưởng là sự thật nhưng lại không
phải, bởi nó là hiện tượng chứ không phải bản chất. Như than chì và kim cương,
người không biết cứ tưởng là hai chất khác nhau, nhưng thực chất chúng lại cùng
là các bon. Có những chuyện người thật việc thật vẫn không phải là sự thật bởi
chúng chỉ là những mẩu của sự thật mà thôi. Trong khi đó với tôi, sự thật cũng
vẫn chưa phải là lịch sử, không phải cái sự thật nào cũng là lịch sử, bởi với
mênh mông sự thật trong đời sống thì lịch sử nào chứa cho đủ?
Vậy lịch sử là gì?
Có lẽ chỉ sự thật nào có thể trở thành văn hóa, những sự thật chủ chốt, bao
quát, có thể nói lên được bản chất của vấn đề, giúp cho hậu thế những bài học
bổ ích thì sẽ thành lịch sử. Tất nhiên không chỉ có những bài học về sự thành
công mà có cả những bài học về sự thất bại. Vì vậy những từ “minh triết”, “hiền
minh” là đúng nhất dùng để chỉ những phẩm chất cần phải có của một nhà viết sử.
Người ta cần phải thấu suốt hết mọi lẽ, với tấm lòng thiện đức, thì mới có thể
viết được sử.
Còn Huy Đức cũng có tham vọng viết sử thì có cái gì?
Đó là một chú bé sau giải phóng bị lóa mắt bởi: “Mấy chiếc xe đạp bóng
lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết
vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể
khóc oe oe … Những chiếc máy Akai, radio cassettes”. Từ đó thấy: “Có một miền
Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi”.
Tôi khi ấy gần như thuộc lớp bộ đội sau cùng, cũng kịp trực tiếp tham gia chiến
dịch HCM. Từ rừng về tôi cũng thấy SG to đẹp, nhưng có lẽ tôi là số rất ít bộ
đội không đi lùng mua khung xe đạp, búp bê, radio cassettes, mà cái mong ước
lớn nhất của tôi lúc ấy là được về thăm nhà và được vào đại học, chỉ thế thôi!
Huy Đức, đến tận 1983 mới “có một năm huấn luyện ở Sài Gòn… Tôi bắt đầu
biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau
8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh””, để rồi với
cách nhìn ấy đã viết nên cuốn sách: “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày
30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người
thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải
phóng hóa ra lại là miền Bắc”.
Đó thực sự là cách nghĩ từ một cái nhìn thiển cận. Và với cách nhìn ấy, cái
nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu như thế thì sẽ viết được cái gì?
Trước khi phân tích cụ thể, ta thử xem qua dư luận về cuốn sách của Huy Đức.
Thật kỳ lạ cả phía “ta” lẫn “địch” đều có người chê Huy Đức dữ dội thì có nhóm
nhỏ “xuất thân việt cộng” nhưng đang làm thuê cho những ông chủ thuộc “thế giới
tự do” thì rất ca ngợi cách nhìn lộn ngược của Huy Đức.
Trong bài ĐỌC “BÊN THẮNG CUỘC” CỦA HUY ĐỨC Posted on 10.12.2012 by
nguyentrongtao , ông GS TRẦN HỮU DŨNG, con Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nguyên là bác
sĩ riêng của Bác Tôn, một người đang dạy học bên Mỹ, viết:
“Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau
1975 mà tôi được biết… Cuốn sách đầy ắp những thông tin mà tôi chưa từng đọc
được trong bất cứ sách báo nào đã xuất bản. Huy Đức là một trong số rất ít (có
thể đếm trên ngón một bàn tay!) ký giả Việt Nam hiện nay có khả năng nghiệp vụ
cao, dày dặn kinh nghiệm, và nhất là có biệt tài tạo sự tin cẩn ở những người
được phỏng vấn về những sự kiện vô cùng “nhạy cảm”, thậm chí “thâm cung bí sử”…
“Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền thoại” về một số lãnh đạo Đảng Cộng sản
Việt Nam”.
Trần Hữu Dũng cũng viết: “Trong chương 1, Ba mươi Tháng Tư, Huy Đức đặt
một tiểu tựa khiến người đọc ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng vì biết tác giả là người
trưởng thành từ bên kia nhưng dùng hai chữ Tuẫn Tiết đặt cho câu chuyện của các
tướng lãnh bên này tự kết liễu đời mình trong ngày chế độ sụp đổ… chỉ có thể
dùng hai chữ “tuẫn tiết” chứ không thể có từ nào hay hơn”.
Việc Trần Hữu Dũng khen Huy Đức dùng chữ “tuẫn tiết” để ca ngợi dũng khí của
mấy người tự sát, vậy phải chăng đó cũng là cách gián tiếp chê gần một triệu
người lính chế độ cũ khác không tự sát là hèn nhát? Còn tôi thấy mấy vị tự sát
chẳng cần phải uổng mạng như thế nếu các vị biết Nixon đã thể hiện quyết tâm
của Mỹ dứt khoát bỏ rơi VNCH khi quát lên với Kissinger rằng (theo baomoi.com): “Tôi không biết liệu lời đe dọa đó có đủ
không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ việc chết tiệt gì - hay cắt đầu hắn ta, nếu cần
thiết” (I don't know whether that threat goes far enough or not but I'd do any
damn thing that is -- or cut off his head if necessary) khi nói về
việc TT Thiệu không muốn ký vào Hiệp định Paris. Đó cũng chính là cái lý do
khiến tướng Nguyễn Cao Kỳ từng thốt lên: “Đây là cuộc chiến tranh của
người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”; rồi: “Việt Cộng gọi
chúng tôi là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính
nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi là những con bù nhìn của người Mỹ, chứ không
phải là lãnh tụ chân chính của nhân dân Việt Nam”. Vậy thì các vị đã tuẫn
tiết thì tuẫn tiết vì cái gì? Vì cái gì Huy Đức đã tôn vinh họ? Và vì cái gì
Trần Hữu Dũng ca ngợi Huy Đức?
Nguyễn Giang, hiện là Trưởng Ban Việt Ngữ BBC, tra trên mạng thấy: “Name:
Nguyen Giang. Born 1972 in Son La, Vietnam. High school and first year of law
studies in Hanoi”, nghĩa là cũng là “con Việt cộng” ở Sơn La. Trên
bbcvietnamese.com, trong bài Về cuốn 'Bên Thắng Cuộc', Nguyễn Giang viết:
“Các đoạn có giá trị nhất, nhiều tư liệu mới nhất và tổng hợp
được cách nhìn của các bên nhất phải kể đến giai đoạn lực lượng
cộng sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn, và thời kỳ quân quản rồi
thống nhất hai miền.
… ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm thầm, cố gắng giữ
vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ nghẹn đi vì
các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh chứng kiện cận
cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ đội về và từ Bắc
vào sống trong Nam…
Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt Nam, nhất là giới
tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí Thanh thời chiến
tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng Hoàng Văn Thái, Lê
Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu bao vây, hạ thấp
tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động”.
Trong bài CÓ PHẢI MÁC LẠI LÀM KHỔ DÂN VĂN GIANG? phản bác TS Phạm Ngọc
Cương ở Canađa, tôi đã viết: “Từ cái nhìn phi lịch sử, từ chỗ chê bai
cuộc sống ở trong nước, ông Cương ca ngợi Canada, nơi ông là một kẻ tha phương
cầu thực. Mọi chuyện ông nói đều đúng cả, nhưng đó chỉ là tư duy “phản xạ có
điều kiện” của Pavlov, chứ không phải là cái nhìn biện chứng của một tư duy
triết học”, thì có lẽ ông Giang, ông Dũng cũng giống như ông Cương thôi,
cũng được những “điều kiện” ở Anh, ở Mỹ đã tạo ra những “phản xạ” trong nhận
thức, nên các ông đã ca ngợi Huy Đức viết ngược như thế.
Ngẫm lại cái số phận thật tai quái, tôi đây mà cũng lại có lần “hân hạnh” được
dùng tiệc cùng với “ông Trưởng ban” Giang nói trên và cả “nhà cách mạng Lê Công
Định” nữa tại quán Nga trên đường Tôn Đức Thắng, Q I, TPHCM!
Ngược lại cái tư duy “phản xạ có điều kiện” nói trên, trên haingoaiphiemdam,
một chứng nhân được Huy Đức cho vào “trang sử” của mình là Lê Quang Liễn, một
Thiếu Tá Quân lực VNCH, đã phản đối Huy Đức:
“Một nhà báo chân chính phải viết cho sự thật, vì lương tâm thì đừng bao giờ
gán, chụp cho những người vắng mặt những gì vì lợi ích cho bản thân, phe nhóm”.
MX Phạm Văn Tiền ĐĐ F Khóa 20 Đà Lạt:
“Kính thưa quý diễn đàn.
Gần đây dư luận xôn xao về một quyển sách của tác giả Huy Đức, người từ chế
độ cộng sản viết về tài liệu lịch sử của cuộc chiến vừa qua. Qua quyển sách có
tên là " Bên thắng cuộc", nhìn toàn diện tác giả dường như muốn diễn
đạt và dẫn chứng những điều thật sự xảy ra sau cuộc chiến, nhưng sự thật đó lại
là những điều không thật… Những dẫn chứng bịa đặt mặc dầu với những tên khác
nhau, nhưng tác giả Huy Đức phải hoàn toàn chịu trách nhiệm những điều không có
thật trong quyển sách của mình. Qua quyển sách "Bên thắng cuộc" của
tác giả Huy Đức là những viên thuốc đắng có bọc đường”.
Ở đoạn này Huy Đức rất giống Bùi Tín. Bùi Tín từng "chiêu hồi", cố
công "lập công chuộc tội" nhưng vẫn bị chửi rủa lăng nhục, thậm chí
có người còn tố cáo Bùi Tín giết người!
Về phía “ta”, trong bài Cóp nhặt ý kiến bình về “Bên thắng cuộc” Posted by butluan on Tháng Mười Hai 21, 2012 . Về chuyện Huy Đức “tố cáo” nhà
nước đầy đọa binh lính chế độ cũ sau giải phóng, bạn Pham Truong Son –
truongsonnd2007@yahoo.com.vn viết:
“Các ông sang bờ bên kia đại dương đã gần 40 năm, mà vẫn còn rất nhiều tổ
chức, hội đoàn, cá nhân ngày đêm kêu gào chống phá, lật đổ. Huống chi chiến
tranh vừa kết thúc, quản lý rồi mà có khi các ông vẫn còn làm loạn ấy chứ, để
các ông tự do thì không biết thế nào!”
Bạn Hoàng Việt Vũ:
“… Trại cải tạo là chuyện mà Nhà nước cần phải làm. Chủ yếu là để đảm bảo an
ninh trật tự trong nước, tránh việc chống phá của các thành phần thuộc chế độ
cũ trong hoàn cảnh khi mà nhà nước còn quá nhiều khó khăn, nếu phải chống cả
thù trong lẫn giặt ngoài thì thành quả cách mạng sẽ đều bị sụp đổ.
Mặt khác, nếu so sánh giữa trại cải tạo của chế độ và những nhà tù chế độ cũ
như nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc, công việc cuốc đất hằng ngày, tăng gia sản
xuất, học tập chính trị có thấm gì so với những kìm kẹp, nhận nước, đóng đinh,
cưa chân mà chế độ cũ đã gây ra đối với những người cách mạng.
Hãy nhìn xem, những người mà cha mẹ họ ra khỏi tù với hàng trăm vết thương,
ra tù với đôi chân bị cưa 7 lần, những người thân tìm thấy xác của con cháu
mình trên đầu vẫn còn hàng chục cây đinh dài cả chục cm. Họ mới là người có
quyền căm thù, có quyền lên tiếng, nhưng họ vẫn im lặng và đặt lại quá khứ sang
một bên, họ không quên đâu, họ vẫn nhớ, nhưng đối với họ tương lai thì quan
trọng hơn nhiều cái quá khứ đau đớn ấy".
Bạn Trần Hạ Long:
“Tôi định không viết nhưng thấy nhiều người than thở thở than theo ông Huy
Đức quá nên cầm lòng không được
Này các bác, tôi là dân Bắc Kì đây, gia đình tôi có cả người từng làm làm ở
hành chánh quốc gia đấy và từng làm dân biểu nữa, cũng đi học nhưng ở lại không
vượt biên, cũng chả sao cả… Tôi kể các bác nghe nhá:
…Ông họ tôi là thiên chúa giáo dân, ông tôi chiến đấu chống Pháp tại hà nam,
ông tôi là công dân nước Việt chống xâm lược nhưng chưa hề xâm lược nước Pháp
nhưng nước Pháp vĩ đại mang ông tôi ra phơi nắng trong khi ông tôi bị thương
nặng vì can tội ” làm Việt Minh” và ông tôi chết trong đau đớn, nhưng còn hơn
một số kẻ cúc cung vì nước Pháp thà làm trâu ngựa hơn làm người tự do…
…Thả tù binh xuống biển, bẻ răng đập hàm… không thủ đoạn đê hèn nào không
làm… Nhưng các bác lờ tịt đi… muốn chối tội à. Tôi biết còn nhiều bác từng
nhuốm máu nay tỏ ra cao đạo phê phán cộng sản, nhiều bác lính kiểng tỏ ra anh
hùng.
Xin các bác nghĩ lại cho một ít”.
Còn với tôi, bộ sách của Huy Đức rất dày, riêng cuốn I đã hơn 800 trang, nên
bài này tôi chỉ muốn chỉ cho Huy Đức biết thực chất cái “nền văn minh” của Miền
Nam trước giải phóng là như thế nào thôi.
“Về sự tươi đẹp của chế độ VNCH, Huỳnh Ngọc Tuấn cũng như không ít người
từng ca ngợi và hay mang ra so sánh với Bắc Việt nghèo khổ, có điều họ không
hiểu rằng, đó chỉ là “lợi nhuận” của việc chống cộng mà cư dân ở những vùng đô
thị miền Nam được hưởng từ việc đánh đổi bằng máu của dân Bắc bởi “chiến tranh
phá hoại” và máu của dân cư vùng nông thôn. Theo "Fire In The Lake"
by Frances Fitgerald, Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139, khi viết về
Diệm, tác giả cũng viết: “Đối với hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thành
phố ký sinh trùng đó đã trở nên béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây
phương. (For him, the modern world was Saigon, that parasite city that fattened
from the blood of the countryside and the lucre of the West)”.
Cụ thể trong Viện trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam trên Wikipedia theo Nguyễn Nhật Hồng Trưởng bộ phận B29:
"Toàn bộ tiền viện trợ và tiền giúp đỡ của quốc tế cho Việt Nam đánh Mỹ
đều tập trung về một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp nhận Sáu
trăm bảy mươi tám triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn) (678.700.000 USD),
trong đó hơn sáu trăm hai sáu triệu đô la là tiền viện trợ đặc biệt, hơn hai
mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ chức và nhân dân quốc tế ủng hộ, gần 21
triệu đô la là tiền lãi kinh doanh chuyển đổi và gửi ngoại tệ ở nước ngoài, gần
bảy triệu rưỡi đô la là lãi từ tiền dự trữ của chiến trường sau giải
phóng...".
Tài liệu của CIA giải
mật của Hoa Kỳ thì đưa ra những con số ước tính qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối
lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương
đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự).
Còn Viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa:
“Theo nguồn do Việt Nam thống kê thì tổng viện trợ cho VNCH từ 1954 đến 1975
là trên 26 tỷ USD. Theo nguồn của Hoa Kỳ thì tổng viện trợ Quân sự cho VNCH từ
1955 đến 1975 là 16,762 tỉ USD. Lưu ý số vũ khí và viện trợ trên chỉ chiếm một
phần nhỏ trong tổng chiến phí của Mỹ ở Việt Nam. Nó chưa bao gồm số vũ khí và
chiến phí do quân đội Mỹ trực tiếp sử dụng trong giai đoạn tham chiến trực tiếp
1964-1973, mà theo thống kê là trên 141 tỷ USD chi phí trực tiếp, tương đương
686 tỷ USD theo thời giá 2008. Mặt khác, nhà kinh tế Steven ước tính tổng chi
tiêu cuối cùng của Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt Nam sẽ lên tới 925 tỷ USD; gấp
3,8 lần chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của Mỹ
cho thế chiến thứ hai”.
Như vậy tổng chi phí của Mỹ cho chiến tranh VN gấp hơn 130 lần mà phía VNDCCH
đã nhận được viện trợ. Vì thế cái “nền văn minh” mà Huy Đức thấy qua “Mấy
chiếc xe đạp bóng lộn”; “cặp nhẫn vàng chóe”; “Những chiếc máy Akai, radio
cassettes”; rồi: “rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca
nhạc” v.v… đều có nguồn gốc từ “925 tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc
chiến ở VN, kèm theo 58000 nhân mạng nữa, để rồi mất trắng trở về.
“Tiến sỉ Nguyễn Tiến Hưng đưa ra một vài thí dụ và dẫn chứng của sự kiện
lịch sử tiêu biểu nhưng vô cùng đau đớn cho chánh quyến VNCH khi lệ thuộc Mỹ.
Về kinh tế nội việc xin Mỹ viện trợ gạo là cả một vấn đế phức tạp, phiền toái
mà trăm dâu đổ đầu tằm VNCH phải chịu. Cứ mỗi năm vào 16-5 mùa giáp hạt, thì
kho gạo VN hết, từ tổng thống đến chánh phủ phải chạy đôn chạy đáo để cầu viện.
Câu viện phải qua 6 bước. Xin Hành Pháp cấp, Quốc Hội chuẩn chi, giải quyết vận
chuyễn,. Vận chuyễn theo luật viện trợ Mỹ phải đấu thầu chuyên chở. Ông Chủ
tịch Ủy Ban chuẫn chì có công ty hàng hải “ bồ bịch” muốn công ty của mình được
thầu. Làm không khéo, đổ bể các nhà thấu khác la lên thì VNCH mang tiếng xấu,
mà không làm cho công ty bồ bịch của Ông thì chuẩn chi khó khăn hay bị cắt
giảm. Chở gạo từ Louisiana lên San Fran, từ San Fran về VN. Nghiệp đoàn công
nhân bốc dở biết Quân Đội ở Miển Trung đang cần gạo, họ hay đình công để làm
tiền. Chánh quyền VNCH không thể trả tiền vòi vĩnh mà cũng không thể ngăn cản
quyền đình công của nghiệp đoàn, trong khi Quân Đoàn I xếp hàng xe chờ gạo,
lính gần hết quân lương. Chánh quyền phải nhờ các thương gia gạo dàn xếp. Đó là
chưa nói gạo viện trợ về bán rẻ thiệt hại cho nông dân VN”.
Chính Nguyễn Văn Thiệu còn có những câu nói để đời rất hồn nhiên thừa nhận việc
mình làm một ông Tổng thống “bù nhìn” như sau:
- Mỹ còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống cộng;
- Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày,
một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!
Không chỉ lệ thuộc về kinh tế mà về chính trị chế độ của Nguyễn Văn Thiệu cũng
hoàn toàn bị lệ thuộc. Khi Mỹ nhận ra sai lầm trong cuộc chiến ở VN, như việc
“cắt lỗ” trong đầu cơ chứng khoán, chính phủ Mỹ đã “vắt chanh bỏ vỏ” Nguyễn Văn
Thiệu không thương tiếc. Trong Nguyễn Văn Thiệu – Wikipedia tiếng Việt:
“trong thư của Tổng thống Nixon gửi ông vào ngày 16 tháng 1 có đoạn:
"Tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt hiệp định vào ngày 23 tháng 1 năm
1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói trên một mình. Trong trường hợp
đó tôi phải giải thích công khai rằng chính phủ của ông cản trở hòa bình. Kết
quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức viện trợ kinh tế và quân sự
của Hoa Kỳ - và một sự thay đổi nhân sự trong chính phủ của ông khó mà nói
trước".
Trong bức thư đề ngày 6/10/1972, Nixon còn ngầm đe dọa: "Tôi yêu cầu ông
cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới
những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính
bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968...".
Henry Kissinger về sau trong hồi ký của mình đã cho rằng: “Nguyễn Văn
Thiệu đã điều hành quốc sự theo một kiểu "tàn bạo", "xấc
láo", "ích kỷ, độc ác" với những "thủ đoạn gần như điên
cuồng" khi làm việc với người Mỹ”; Kissinger cũng tiết lộ rằng, khi
nói về việc Nguyễn Văn Thiệu ngăn cản Mỹ ký hiệp định Paris, Tổng thống Nixon
đã giận dữ thốt lên: "Ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên
đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hãy tin lời tôi."
Một “nền văn minh” luôn tùy thuộc vào chế độ chính trị và tiềm lực kinh tế. Vì
những lẽ trên đây mà người ta đã cho cuộc sống ở Sài Gòn trước 75 chỉ là “phồn
vinh giả tạo”. Mà nền kinh tế ấy cũng lại: “ở miền Nam, Hoa kiều kiểm
soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh
vực: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80%
các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất,
luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn
50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm
soát giá cả thị trường”.
Đó là những thông tin chỉ bấm một phát là ra trên Google, vậy mà Huy Đức đến
tận bây giờ còn mù quáng thì thử hỏi còn tham vọng viết lách cái gì?
Còn cuộc sống ở ngoài bắc trước 1975, Huy Đức cần phải hiểu nếu không có chiến
tranh, nếu miền Bắc không phải “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”, “tất cả vì Miền nam ruột thịt” thì chắc chắn mức sống 2 miền Nam, Bắc
không quá chênh lệch như thế!
Cũng liên quan đến Kissinger, cũng về sự lệ thuộc nước ngoài, Lê Mai trong
bài Ba bảo bối của Lê Đức Thọ viết về Lê Đức Thọ, một nhân vật
mà Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cho "Ông ý là nhà
ngoại giao khổng lồ; nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đánh giá là một “phái viên
chiến lược toàn năng, có thể ví như một tướng quân tài ba thao lược” (VietNam.net);
còn Huy Đức trong cuốn sách của mình đã cố công bôi đen hình ảnh của ông bằng
những tư liệu không chính thống; nhưng thực tế, với Nguyễn Văn Thiệu, ta càng
thấy nhục cho người Việt mình trước người Mỹ bao nhiêu thì với Lê Đức Thọ, ta
lại càng tự hào bấy nhiêu. Lê Mai đã viết:
“Kissinger viết: “Tóc hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại
cán màu xám hoặc ma-rông. Đôi mắt to và sáng, ít khi để lộ sự cuồng tín đã thúc
đẩy ông hồi mười sáu tuổi đi theo phong trào du kích cộng sản chống Pháp. Ông
bao giờ cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao giờ cũng không có điều gì chê
trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết ông muốn gì và phục vụ lý tưởng
của ông một cách tận tụy và khéo léo”.
Kissinger dường như tin rằng chìa khóa để giải quyết vấn đề VN là ở Mátxcơva
và Bắc Kinh.
- Ngài cố vấn qua Bắc Kinh, Mátxcơva, chắc đã được các bạn của ngài thông
báo về ý kiến của chúng tôi trong đợt đàm phán này - Kissinger khiêu khích.
- Bạn chúng tôi ủng hộ chúng tôi, nhưng không làm thay chúng tôi. Mấy năm
qua các ông cứ chạy vay chỗ này chỗ kia, chỉ làm phức tạp thêm vấn đề. Trong
một ván cờ, quyết định thắng thua phải là người trong cuộc, không có cách nào
khác. Chúng tôi độc lập giải quyết vấn đề của chúng tôi - Lê Đức Thọ trả lời.
Khi Kissinger thông báo, Sài Gòn sẽ không ký, Lê Đức Thọ nói với Kissinger:
“Năm năm nay không bao giờ ông để tôi tin ông lấy một lời. Ông hứa danh dự rồi
chính ông lại dí ngay lời hứa đó xuống chân ông. Ông lật lọng hết mức”.
Kissinger bực lên và đáp:“Ông nói là lời của tôi vô giá trị, thế thì ngồi
đây đàm phán làm gì. Tôi phải tính đến chuyện lần sau để người khác đàm phán
với ông, tôi với ông không đàm phán với nhau nữa”.
Kể cũng lạ, đi đàm phán với đối phương là giáo sư Đại học Harvard lừng danh
mà Lê Đức Thọ nhiều khi ứng xử như với cán bộ của mình, nghĩa là tiếng oang
oang, chỉ mặt lên tay, thậm chí còn nói thẳng ra rằng Kissinger là kẻ nói láo!
Một hôm, trước bữa nghỉ ăn trưa, Kissinger nói với Lê Đức Thọ:
- Hiện giờ ông cố vấn đàm phán với tôi thì ông nói như mắng tôi; sau này kết
thúc đàm phán, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình rồi, thì ông mắng ai?”.
Tóm lại, Bên Thắng cuộc là cuốn sách được Huy Đức viết rất kỳ công, chi li,
nhưng những cái bình thường thì đều đã được đăng tải trên sách báo chính thống,
còn những cái khác thường thì cũng đã đăng tải trên mạng. Riêng tôi thì còn
biết hơn nhiều lần kể cả số lượng cũng như độ ‘ghê gớm” của những tư liệu, quan
trọng là phải biết có cần viết ra hay không mà thôi. Chỉ có điều đặc biệt là
Đức khoe do công việc nên đã được gặp và phỏng vấn nhiều nhà lãnh đạo và những
cán bộ cao cấp, đảm bảo tính chính xác của thông tin, bởi đều là những chuyện
người thật việc thật. Nhưng như tôi đã viết, dù đúng là chuyện người thật việc
thật, nhưng nếu chỉ là cái nhìn chủ quan, phiến diện, cục bộ thì chỉ là những
mẩu sự thật chứ chưa phải là sự thật. Mà Lịch sử lại cần phải được viết bởi sự
minh triết để có thể bao quát thấu suốt, viết ra được bản chất sâu xa nhất của
các sự kiện, để đời sau rút ra được những bài học bổ ích. Trong khi đó Bên
thắng cuộc lại chỉ xoáy vào cái xấu, cái yếu kém, lại được nhìn nhận bằng một
cái tâm tối trí thấp, nên cái mà Huy Đức viết ra không phải là lịch sử với ý
nghĩa cao quý nhất của nó mà chỉ là những ghi chép sai lạc. Theo tôi, đây là
cuốn sách rất nguy hiểm bởi cái vẻ khách quan, và thái độ điềm tĩnh khi liệt kê
chi li các vụ việc; người có thành kiến, người ít hiểu biết và nhất là lớp trẻ
rất dễ bị dẫn dắt để tin đó là sự thật!
Với những Chỉ thị về việc “Nói và viết những vấn đề liên quan đến lịch sử và
lãnh đạo Đảng, Nhà nước”, chắc chắn Huy Đức đã vi phạm. Phải chăng Huy Đức
không sợ vì đã noi theo Herostratos (‘Ηρόστρατος), một thanh niên thời cổ đại,
hy vọng sẽ trở nên nổi tiếng đã phóng hỏa đốt Đền thờ thần Artemis? Chắc không phải vậy, mà Huy Đức chỉ noi theo một số
người ở chính nước ta đã nổi danh bằng cách nói ngược. Điển hình như bà Dương
Thu Hương mà Đức đã coi như thần tượng từng nói là đã khóc như cha chết trong
ngày giải phóng vì thấy đội quân chiến thắng của mình là đội quân man rợ. Có
điều bà này cũng xạo, cũng là kẻ như các cụ nói là lá mặt lá trái, cơ hội, vì
thực tế, ngày mới giải phóng bà ta không "khóc" mà đã viết truyện
“Loài hoa biến sắc” cho “nền văn minh” của SG, cái “nền văn minh” đã làm lóa
mắt Đức đó, chỉ là “Một lớp giấy trên chiếc rọ làm hình nhân bị xé
rách. Một lớp váng dầu ngũ sắc bị khuấy tan trên mặt nước tù” mà thôi!
Cuốn Bên thắng cuộc còn rất nhiều vấn đề, nếu còn hứng viết, tôi sẽ viết
tiếp.
Thật ra ban đầu mình cũng ko có ác cảm gì lắm với Huy Đức. Hồi Huy Đức viết bài
liệt kê ra những sai lầm trong nhiệm kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì mình
cũng đọc và thấy được. Với quyển sách này thì mình cũng giữ open mind thôi.
Nhưng sau khi đọc 1 lọat các quảng cáo, giới thiệu quyển sách này và nhất là
cái đọan "Vì sao tôi viết" thì thú thật là không ngửi nổi và không
tài nào đọc thêm được.
Chú Đông La gọi đây là hiện tượng "nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu" là
quá chính xác. Mình thì thấy những luận điệu của Huy Đức quá là "sâu sắc
tựa khơi đựng trầu".
Huy Đức đánh giá một nơi có cần giải phóng hay ko qua chiếc xe đạp bóng đẹp,
nhẫn vàng, những chiếc máy Akai, radio cassettes do nước ngoài sản xuất. Nói
chung là những hiện tượng vật chất phồn hoa đô hội bên ngoài. Những hiện tượng,
cảnh tượng màu mè này thì Sài Gòn thời thực dân Pháp đã vậy rồi, đã có từ thời
Pháp rồi. Ý Huy Đức là cũng không cần đánh Pháp, Bảo Đại?
Mình đã đánh giá quá cao Huy Đức và "tác phẩm" này khi trước kia mình
cho rằng đây là 1 kẻ vô cảm, viết ko đứng trên lập trường của người Việt Nam và
lợi ích dân tộc VN, mà trung lập cuội, khách quan phiệt, viết như 1 kẻ bàng
quan vô cảm bên ngòai.
Nhưng bây giờ đọc 1 số người bàn về "tác phẩm" này và nghĩ lại thì
mình thấy đó là đã đánh giá quá cao. Chứ thực ra cuốn sách này cũng không hề
khách quan, không chuyên nghiệp, không trung thực, không hề trung lập. Đưa tin
có chọn lọc theo cảm tính và có tính định hướng lệch lạc. Thậm chí có phần viết
theo lập trường của bọn cướp nước và bọn bán nước, những kẻ gây nên bao tội ác
tang tóc cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Thật là tự bôi tro trát trấu vào mặt mình khi Huy Đức chọn thời điểm 40 năm dấu
mốc ĐBP trên không, khi giặc Mỹ gây ra những tội ác khủng khiếp ở miền Bắc VN
để xuất bản "món quà Noel kinh hoàng" này. Cũng như "món quà
Noel kinh hòang" mà những "quan thầy hụt" mà Huy Đức ao ước phục
vụ năm xưa đã rải lên đầu lên cổ dân Hà Nội và miền Bắc.
Lờ tịt đi vai trò của giặc Mỹ, lờ tịt đi tội ác của Mỹ ngụy. Đây gọi là trung
lập khách quan? Nếu muốn trung lập khách quan thật sự thì những tội lỗi của các
bên phải được đưa lên đầy đủ. Đàng này Huy Đức viết theo kiểu 1 chiều, phiến
diện, cố tình thiếu sót, có tác dụng chạy tội cho giặc. Làm giảm nhẹ tội ác của
giặc cũng đã đáng lên án, đằng này Huy Đức hòan tòan lờ tịt đi để chạy tội cho
giặc.
Những "Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng
chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra… Những chiếc
máy Akai, radio cassettes" phồn hoa đô hội đó là phục vụ cho dân
Sài Gòn, dân miền Nam, hay là để phục vụ cho những kẻ nước ngoài và một bộ phận
nhỏ người bản xứ hưởng sái ăn ké, có lợi ích gắn chặt với giặc?
Huy Đức hòan toàn lờ đi những thân phận khác, hàng chục ngàn con lai Mỹ, trẻ mồ
côi, người nghiện ma túy, gái mại dâm, những thân phận đau khổ lầm than trong
cái căn cứ quân sự khổng lồ ở SG, kẽm gai, nhà tù khắp nơi, đầy lính Mỹ và bọn
Tây. Những người VN chịu những tội ác Mỹ ngụy. Những người bị lính Mỹ, lính
ngụy hiếp dâm. Những người biểu tình bị lính Mỹ và cảnh sát ngụy dùng súng đạn,
vòi rồng, dùi cui, lựu đạn cay, roi điện trấn áp, bắn chết. Những sân trường
đầy máu tươi và nước mắt. Bao nhiêu người đã hy sinh, đã ngã xuống trước họng
súng Mỹ ngụy. Bao nhiêu người đã chết trong nhà tù Mỹ ngụy.
NHỮNG ĐỒNG BÀO ĐÓ KHÔNG ĐÁNG ĐƯỢC GIẢI PHÓNG HAY SAO HẢ? ĐÓ LÀ TRUNG LẬP HAY
KHỐN NẠN HẢ HUY ĐỨC?
Đọc cái đọan văn sặc mùi ngụy Sài Gòn vichoco chống cộng cực đoan, sặc mùi cha
con Hùynh Thục Vy đó là ko thể nào đọc tiếp nổi. Từ đó suy ra những người viết
bài quảng cáo cho sách này có thể chỉ là những kẻ được hứa ăn chia tiền bán
sách (sách này Huy Đức tự xuất bản ở Boston Mỹ, rao bán online).
Huy Đức có phỏng vấn, hỏi, nói chuyện, đưa lên những đọan trung thực của những
người Mỹ và trong chính quyền SG nói gì về cuộc chiến ko, về vai trò của người
Mỹ, về tội ác của người Mỹ ko. Huy Đức có bao nhiêu lần dự, tường thuật những
họp mặt, hội thảo của các biệt động Sài Gòn - Gia Định ko? Huy Đức đã xem những
phim tài liệu nói về lực lượng biệt động Sài Gòn chưa? Huy Đức có đọc những tài
liệu Mỹ để biết do đâu mà Mặt Trận làm nên được một Mậu Thân 1968 cả miền Nam
nổi dậy hay không? Họ hầu hết là người miền Nam và trong đó phần đông chính là
người Sài Gòn, người Sài Gòn họat động và chiến đấu ngay tại SG.
Ở miền Nam và SG nơi nào cũng có người dân ủng hộ Mặt Trận, cũng có cảm tình
viên VC, cũng có biệt động và dân quân - tự vệ ở khắp mọi nơi. Những người mà
bọn ngụy hay gom lại gọi chung một cách chụp mũ là "VC nằm vùng".
NHỮNG NGƯỜI NÀY Ở NGAY TRONG LÒNG GIẶC, SINH SỐNG NGAY TRONG LÒNG CÁI NƠI CẦN
GIẢI PHÓNG VÀ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG ĐÓ HUY ĐỨC!
Có cần sách giáo khoa nào nói về miền Nam hay không? Khi chính dân miền Nam
ngày ngày nhìn thấy bọn giặc cướp đi giết người cướp của đốt nhà, đi càn quét
khắp làng này đến xã khác, giết sạch phá sạch đốt sạch, "lê máy chém"
khắp nơi, những tòa án phát xít, bom và chất độc hóa học trút lên đầu, hiếp
dâm, hiếp xong rồi giết, cả những bé gái cũng ko tha. Các ông lão bà cụ bị giết
sạch. Hàng trăm cuộc thảm sát đã xảy ra ở miền Nam. Chúng nó giơ thủ cấp của
những người dân thân cộng lên chụp hình quay phim khoe khoang. Cắt tai, xẻo vú,
xẻo thịt. Địa ngục Côn Đảo với những chuồng cọp chuồng bò.
Có cần sách giáo khoa nào hay ban tuyên giáo hay loa phường nào nói về miền Nam
không? Khi các bộ đội du kích đến nhà dân xin ở nhờ, xin giúp đỡ thì có cần dân
tuyên huấn tuyên giáo nào đi theo không? Không có dân miền Nam ủng hộ, không có
dân miền Nam chống Mỹ ngụy thì những chuyến hàng chuyến người qua ngã Trường
Sơn qua ai ra đón nhận, rồi ai che giấu cho? Hàng tấn vũ khí để trong mấy căn
nhà của ai ở SG?
Huy Đức bảo những người Sài Gòn, người miền Nam, sống trong lòng địch, ăn ngủ
hàng ngày ngay tại quê hương họ, chính tận mắt nhìn thấy, chứng kiến tội ác của
bọn xâm lược và bọn phản quốc hàng ngày là bị Đảng, bị Mặt Trận "lừa
phỉnh" về miền Nam?
Huy Đức còn liêm sỉ thì hãy tìm đến và quỳ xuống tạ tội trước 29.220 Bà mẹ Việt
Nam anh hùng (những phụ nữ có ít nhất 3 liệt sĩ là bản thân, chồng, hoặc con
trai trong gia đình) người miền Nam (nhiều hơn gấp 3 lần bà mẹ
miền Bắc) còn đang sống. Và đốt bỏ hết những cuốn sách bất nhân bất nghĩa này
trước mặt những bà má miền Nam anh hùng.
Nội dung thì thiếu sót, phiến diện, 1 chiều, không trung thực, cắt xén, xào
nấu. Thể hiện lên một tư duy tay sai nô lệ. Những lẽ này làm mình nghi ngờ tính
lương thiện và động cơ của cuốn sách.
Tại sao miền Nam cần được giải phóng và phải được giải phóng? Như vậy thì phải
hỏi sau 1975 miền Nam đã được giải phóng khỏi những gì. Mình lười nên xin trích
dẫn lại một đọan trong phần tổng kết của bài Hùng ca ĐBP trên không và những thế cờ chiến lược:
Miền Bắc không còn tiếng hú báo động từ
loa phường kêu gọi đồng bào mau xuống hầm trú ẩn, không còn cảnh tản cư tránh
bom đạn, không còn cảnh mưa bom bão đạn kẻ thù giáng xuống, không còn những
ngôi nhà, chung cư, khu phố, bệnh viện, trường học, nhà máy, nhà thờ, chùa
chiền, di tích lịch sử bị bom giặc tàn phá.
Miền Nam không còn bóng giặc, không còn tiếng bom đạn đì đùng, không còn những
ngày đêm vùng vẫy trong trại tập trung "Ấp Chiến Lược", không còn
những ngày đêm bị càn bị quét, không còn những trận càn, ruồng bố, khủng bố
trắng, thảm sát man rợ và những tội ác dã man mà nhiều người gọi là những tội
ác diệt chủng, chống loài người.
Không còn những thảm cảnh giết người đốt nhà, "ba sạch" (phá sạch,
giết sạch, đốt sạch). Không còn những cảnh phụ nữ, trẻ con bị hiếp rồi giết.
Không còn những cảnh những bà cụ, ông lão bị lùa xuống mương và xả súng giết
tập thể. Không còn những tên giặc giơ thủ cấp của người Việt yêu nước khoe
khoang trước ống kính. Không còn những đạo luật giết người, "lê máy
chém" khắp nơi.
Không còn bọn mật vụ Phượng Hoàng hàng ngày hàng giờ lùng sục bắt cóc, thủ
tiêu. Không còn những tên lính giặc không coi người Việt là loài người như sĩ
quan Mỹ Celina Dunlop đã tự bạch trên kênh BBC Anh ngữ tháng 3 năm 2008:
"Most people in our company didn’t consider the Vietnamese human".
Không còn những thảm kịch cắt đầu, xẻo tai, xẻo thịt, xẻo vú phụ nữ. Bom đạn và
chất độc hóa học không còn rơi lên trên đất miền Nam, người miền Nam.
Không còn những bi kịch lính Mỹ đối đãi bất công, đánh đập, giết chóc một bộ
phận lính ngụy, sĩ quan ngụy, giết "tổng thống" ngụy. Không còn những
lần người Mỹ thí nghiệm và lùa lính ngụy đi vào đất chết. Không còn cảnh tượng
lính Mỹ hãm hiếp, bắt làm nô lệ tình dục vợ con và người thân của lính ngụy. Không
còn cảnh những cô gái Sài Gòn phấn son kỹ lưỡng với những chiếc váy không thể
ngắn hơn đứng đầy đường công khai giữa ban ngày chào mời lính Mỹ.
Không còn cảnh những căn cứ quân sự nước ngoài đầy kẽm gai mọc lên như nấm, gần
100 vạn quân viễn chinh tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, không coi ai ra
gì, tự do cướp - hiếp - giết khắp nơi, xâm hại chà đạp lên quyền con người.
Không còn những phận đời trôi nổi của gần nửa triệu con lai Mỹ, trong đó có
hàng vạn trẻ mồ côi. Nông thôn và đô thị miền Nam cũng không còn những lần biểu
tình bị đàn áp dã man bằng dùi cui, lựu đạn cay, roi điện, súng đạn. Những sân
trường không còn đổ máu, không còn những người dân, thanh niên, sinh viên ngã
xuống trước quân đội Mỹ và cảnh sát ngụy.
Tóm lại là không còn hàng trăm cuộc thảm sát ở miền Nam Việt Nam, không còn
những tội ác của quân xâm lược và tay sai. Không còn những mảnh đời đau khổ,
trong đó có cả lính ngụy và người thân, người nhà của họ. Không còn cảnh người
Mỹ hòanh hành dẫm đạp khắp miền Nam, muốn giết ai thì giết, từ phụ nữ trẻ em cụ
già cho tới "tổng thống anh minh".
Bao nhiêu năm giặc Mỹ ở miền Nam gây ra hàng ngàn tội ác và hàng trăm cuộc thảm
sát tập thể. Nhiều đó chưa đủ sao? Không giải phóng thì chừng nào mới giải
phóng? Đợi lên đến hàng chục ngàn, hàng vạn thảm sát khác, những Phú Lợi, đạo
luật 10/59, Hướng Điền, Thạnh Phong, Sơn Mỹ, chất độc da cam, Phụng Hoàng,
Speedy Express, Mãnh Hổ, Thái Bình, Phong Nhi, Phong Nhất, Hà Mỹ, Bình Hòa....
khác?
Đợi đến lúc đó thì những trang này bây giờ đã dài đến mức nào:
Những quan điểm như Huy Đức là vô cùng nguy hiểm cho các thế hệ tương lai. Nó
làm lệch chuẩn, lệch lạc bản chất, đánh tráo khái niệm, cào bằng giá trị, đảo
lộn trắng đen. Nó cào bằng tất cả và đánh mất đi tính dân tộc, yếu tố dân tộc,
sự chính nghĩa của một quốc gia dân tộc tự vệ để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ sự
độc lập và thống nhất của mình. Và nó chạy tội cho giặc xâm lược, chạy tội cho
những kẻ viễn chinh gây tội ác.
Và nguy hiểm nhất là nó mặc nhiên phớt lờ hoặc coi nhẹ những tội ác đó, coi nhẹ
chuyện 1 bọn nước ngòai đem gần 100 vạn quân đến nước ta giết chóc, đốt nhà,
gây ra bao nhiêu tội ác tày trời.
Như vậy nó đã đảo lộn nhân văn, giá trị, dẫm đạp lên các giá trị dân tộc, hạ
thấp phần người xuống thành con vật, hạ thấp dân tộc VN, hạ thấp người VN xuống
ngang hành với nô lệ hoặc con vật gì đó mà bọn lính ngọai bang có thể nói giết
là giết, bắn là bắn, đốt nhà là đốt nhà. Là đối tượng của những trò thí nghiệm
tội ác. Xem đó là "chuyện bình thường". Mặc định một tiền đề khốn nạn
rằng: Dân tộc người ta là dân tộc "thượng đẳng" nên người ta có quyền
làm thế, và làm thế là bình thường. Dân tộc Việt Nam mình là dân tộc "hạ
đẳng" nên chúng nó có đối xử với dân mình như con vật thì cũng không sao,
"chiến tranh thôi mà".
Những kẻ nào nhẫn tâm "làm sử" theo phong cách bán đứng lương tâm,
bán rẻ nhân cách này, và gọi đó là "làm sử", là "trung
thực" thì chỉ có hai giải thích: Một là họ không coi bản thân họ là người
Việt Nam. Trong khi chính những người nước ngòai, không phải người Việt, lại
đồng cảm với nỗi đau của đồng lọai, trong khi chúng nó dửng dưng vô cảm với nỗi
đau của đồng bào. Thậm chí là hả dạ, hả hê một cách vô liêm sỉ và thú vật man
rợ, mất tính người.
Hai là họ không đủ lòng tự trọng, tự tôn của một con người. Và quả thật khi đối
diện với người Mỹ, lính Mỹ, chủ Mỹ thì họ coi đó là quan hệ giữa nô lệ với chủ
nhân, hoặc giữa con vật với con người. Chính vì vậy nên họ mới thấy hàng chục
ngàn tội ác người Mỹ gây ra cho người Việt là "bình thường", là
"không đáng nhắc tới".
Trong khi Huy Đức thừa thời gian và chữ nghĩa để viết những chi tiết linh tinh
kiểu "Lê Duẩn nghe tin quân VN tiến vào Nam Vang song chỉ ừ 1
tiếng rồi ngủ tiếp". Hay bịa đặt ra những chi tiết phi lý rẻ tiền
kiểu "Lê Đức Thọ khóc lóc quỳ mọp xuống đất xin Lê Duẩn cho lên kế
nhiệm". Nhưng 1 dòng nói về trách nhiệm chiến tranh của Mỹ, những tội
ác của chính phủ và quân đội Mỹ gây ra ở miền Nam, những nguyên nhân miền Nam
cần giải phóng, thì không có lấy 1 dòng. Quá "trung thực"!
Quá "trung lập"! Quá "khách quan"!
Một bọn cướp kéo bầy gần 100 vạn tên vào nhà, dày xéo lên miền Nam, giết người,
đốt nhà, thảm sát, hiếp dâm. Thì chúng nó lấy kính hiển vi, kính viễn vọng soi
rất kỹ, vặn vẹo từng cái lỗi nhỏ của những người đánh cướp ra ngòai, của những
nạn nhân bị cướp. Còn bọn cướp thì hòan tòan không thấy đâu. Cứ như bọn cướp
chưa từng xuất hiện. Cứ như 60 vạn quân Mỹ và đồng minh chư hầu biến mất vào
trong không khí vậy.
Phải giải thích như thế nào khi Huy Đức nói về việc giải phóng miền Nam với cái
thái độ hỗn xược rẻ rúng, "đốt đền thờ" như vậy? Những kẻ như vậy đã
có tâm địa loài thú rồi thì lấy tư cách gì nói chuyện nhân quyền, quyền con
người?
Chiến tranh đã qua đi gần 40 năm, đủ dài để người ta chiêm nghiệm lại lịch
sử, trong khi tác giả vẫn chỉ chọn chỗ đứng ở góc độ nhà báo, mà lại không
chứng kiến trực tiếp, chỉ nghe người này kể, người kia nói, lấy thêm từ những
cuốn sách khác đã xuất bản hay không (chỉ được phổ biến trên mạng) để cung cấp
thông tin.
Sự kiện 30/4 cùng những năm đầu giải phóng tư liệu nhiều và phong phú đến độ
muốn làm mới nó, chỉ có cách duy nhất là buộc phải bày tỏ nhãn quan của chính
tác giả, tức là phải đứng ở góc độ nhà viết sử chứ không phải là anh nhà báo
chạy vòng vòng quanh sự kiện, thấy cái gì thì tả cái nấy.
Khoảng một nửa nội dung sách đã từng được đăng trên các báo chí trong nước, mà
cách bạn rân chủ gọi là "lề phải", không dám nói là toàn bộ, nhưng
cũng phải trên 9 phần 10 nội dung những người có tuổi trong nước đều đã biết,
và không ngạc nhiên khi tác giả từng hi vọng xuất bản trong nước.
Tuy nhiên cuốn sách có vài nội dung mà truyền thông trong nước chưa muốn đụng
tới (nhưng không phải là khó khi muốn tìm hiểu về nó), đó là câu chuyện của
những người vượt biên, 2 cuộc chiến tranh biên giới + quan hệ Việt Nam -
Campuchia và vai trò của cá nhân các lãnh đạo trong thời bao cấp.
Trong những trường hợp cụ thể, tác giả lại phải thông qua vài nấc lớp trung gian
như đã nói trên, mặt khác tư liệu tràng giang đại hải, dàn trải mông lung, rất
khó tóm lược được ý chính của sự kiện mà tác giả muốn tả.
Miềng cũng không thích nhiều đoạn mà câu chữ thiên về mỉa mai, nhưng đó chỉ là
cảm nhận cá nhân, hãy nói về nội dung, có thể bàn tới 3 nội dung chính:
- Câu chuyện của những người vượt biên
- 2 cuộc chiến tranh biên giới + quan hệ Việt Nam - Campuchia
- Câu chuyện của những người lãnh đạo
- Đối với câu chuyện về những người vượt biên, không có gì mới, mười mấy năm lăn
lộn trên mạng miềng đã nghe, đã đọc nhiều chuyện như vậy, những câu chuyện về
trại cải tạo, đánh tư sản, trí thức không được trọng dụng ..v.v...
Đến thời điểm này thì những câu chuyện đó đã cũ, những người đó hiện giờ đã êm
ấm ở nước ngoài hưởng tuổi già, con cháu không còn nói tiếng Việt, theo những
"cựu thuyền nhân" thì chỉ có "phe thua" quan tâm nội dung
này, vì nó là một sự công nhận từ "phe thắng", thôi thì đó là chuyện
của các cụ với nhau, để các cụ tự chém gió lấy.
Cuốn sách có kể ra những chuyến vượt biên là có sự chấp thuận của Đảng, cho
thấy thái độ của "phe thắng" đối với sự kiện này, cũng là điều chẳng
mới mẻ gì.
Nhưng có điều miềnh muốn biết mà rất ít sách báo đề cập, kể cả trong cuốn sách
này, đó là câu chuyện của những người ở lại, về tâm tư tình cảm của họ, gần 1
triệu người ra đi, hàng chục triệu người ở lại tìm đường mưu sinh, đó là những
người sinh ra thế hệ trẻ năng động ngày nay, là những người định hình xã hội VN
hôm nay, chịu hết những khó khăn của đất nước thời đó, nhưng xem ra miềng biết
rất ít về họ trừ những câu chuyện chung chung về tem phiếu, bo bo trộn với mỳ
chẳng hạn.
- Nội dung về 2 cuộc chiến tranh biên giới: câu chuyện của những người lính,
các mối quan hệ quốc tế, mối quan hệ phức tạp giữa Việt Nam với chính phủ
Campuchia thời điểm đó, phần lớn đều không mới, có nghĩa là với miềng, đều đã
đọc, đã nghe từ lâu.
- Câu chuyện của những nhà lãnh đạo: cuốn sách trình bày có hệ thống (những gì
mà tác giả cho là) suy nghĩ của các nhà lãnh đạo đương thời.
Những thứ ảnh hưởng tới chính sách: ý thức hệ, kinh nghiệm quá khứ, ảnh hưởng
của Trung Quốc và Liên Xô, các kinh nghiệm thực tế; những trăn trở giữa một bên
là giáo điều với một bên là thực tiễn, một phần lớn trong nội dung này là những
chính sách đã biết qua báo chí chính thống.
Phần còn lại là ảnh hưởng cá nhân của từng lãnh đạo lên các chính sách này, cho
dù chưa kiểm chứng được, nhưng khá giống với những gì miềnh đã biết về con
người, cách nghĩ và cung cách ra quyết định thời đó.
Phần này gồm nhiều chuyện cung cấm và không cần mấy động não khi đọc, tuy tác
giả viết rằng những câu chuyện riêng tư đôi khi cũng giúp làm sáng tỏ phần nào
lịch sử, nhất là những tình huống cá nhân liên quan đến các quyết định làm thay
đổi lịch sử.
Vậy nhưng phải cố gắng lắm lắm mới lướt qua được phần này bởi trong khối tư
liệu đồ sộ, tác giả luẩn quẩn, bùng nhùng mãi không thể thoát ra được những câu
chuyện riêng tư hay tình huống cá nhân, để cho người đọc thấy được phần nào
lịch sử trong đó, nhất là đoạn về ông Võ Văn Kiệt, có thể nói tách đoạn này
riêng ra thì sẽ có một cuốn "hồi ký Võ Văn Kiệt", nhưng hồi ký thì
khác, còn ở đây tác giả dùng vào ý đồ khác.
Phủ lên tất cả dấu ấn Nguyễn Văn Linh hay bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn
Kiệt (tác giả dùng cụm từ tam nhân Mười- Anh- Kiệt) là những đánh giá nhìn nhận
đầy thành kiến với Nguyễn Văn Linh, trường hợp này đặt trong bối cảnh một cuốn
"hồi kí Võ Văn Kiệt" thì còn có thể chấp nhận được nhưng khi đưa vào
cuốn sách này, nó trở nên không đáng tin bất chấp cứ liệu lịch sử có chính xác
đến đâu.
Trường hợp Lê Đức Thọ, được tác giả tả là đã quỳ xuống chân Lê Duẩn nhưng bị Lê
Duẩn hất ra: “Anh lạ thật, tôi đã từ chối rồi. Những khi nào cần nổi
danh là anh cứ xin tôi, đi Paris, rồi đi miền Nam khi sắp giành chiến thắng.
Tôi đã nói rồi, Trường Chinh”
Xét về quan hệ cá nhân (người với người) thì cụ Lê Duẩn còn phải e dè
cụ Lê Đức Thọ (cụ LĐT họ Phan chứ không phải họ Lê) vài bậc, cỡ 'tạo
ra vua' mà quỳ xin ư? Đúng là tư duy hạng đầy tớ!
Xin đi Paris ư?
Nếu Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Duy Trinh.. đủ tầm đấu với Kissinger thì
dẫu Lê Đức Thọ có 'xin' cũng chả ai 'cho đi' và giải Nobel Hòa Bình năm
ấy đã chả dành cho khách du lịch Lê Đức Thọ (dù cụ từ chối).
Hồi tháng 05 và tháng 12 năm 1978, Lê Đức Thọ có 'xin' ngồi trực thăng bay
khắp dải biên giới Tây Nam trực tiếp chỉ đạo chiến dịch chống Khờ me
đỏ?
Lê Đức Thọ có 'xin' lên chốt tiền tiêu Hà Giang, Lạng Sơn nếm mật nằm
gai thị sát chiến trường?
Các tướng tài chả ai nể phục ai nhưng tất cả răm rắp tuân lệnh người
chả có quân hàm là Lê Đức Thọ!
Thời kỳ sau 30/4/1975 có lắm nhân tài nhưng uy lực tuyệt đối chỉ có 1
người: Lê Đức Thọ! Vì có uy lực tuyệt đối nên cụ khinh thường mọi
cái ghế phù phiếm, dù là ghế TBT.
Túm các cái lại, luận điệu 'nội chiến' với miệng lưỡi của hạng
osin để lấy lòng 'ma cũ' (cũng là osin cho chủ Mỹ) & tâng công làm
thủ tục nhập gia, chiêu bài 'Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam', 'Miền
Nam là nạn nhân của cộng sản Bắc Việt', 'Cuộc chiến tranh ý thức hệ
vô nghĩa, bạo tàn: Cộng sản thắng còn nhân dân thua trắng', 'Nam - Bắc
Việt, 2 chư hầu hiếu chiến của siêu cường Xô - Mỹ'.. mà lũ rận ra rả
suốt mấy chục năm nay, với họ, độc lập tự do chả ý nghĩa gì, chỉ
làm chó cho Mỹ mới là sung sướng, mới là hạnh phúc.
Miềng sẽ không bàn về cuốn sách này nữa, kể từ sau pót này, chỉ dẫn nhận xét từ
những người khác, thậm chí bạn nào có nhã hứng bình luận, miềng xin mời tham gia, chỉ yêu cầu các bạn đừng mất văn hóa khi
trao đổi.
Một người bạn tôi trích trên FB đoạn này: "Giữa trưa 7-1-1979, khi
nghe con rể là Giáo sư Hồ Ngọc Đại đánh thức báo tin, “Quân ta đã vào Phnom
Penh”, ông Lê Duẩn chỉ “ừ” rồi ngủ tiếp. Ông Hồ Ngọc Đại nói: “Tôi rất ngạc
nhiên. Khi nhận được điện thoại từ Cục Tác chiến tôi cũng không ngờ chuyện long
trời lở đất như thế mà ông vẫn ngủ”. Đưa đại quân đến thủ đô một quốc gia khác
tưởng nhẹ tựa giấc ngủ trưa của một đấng quân vương nhưng phải mười năm sau
Quân đội Việt Nam mới rút được chân ra khỏi đó.
Trích : Đức, Huy (2012-12-06). Bên Thắng Cuộc (Giải phóng) (Kindle Locations
12766-12772). OsinBook∘2012. Kindle Edition."
Tôi trả lời bạn tôi như thế này:
"Đây là một ví dụ về cách đưa sự kiện với dụng ý chủ quan nhằm bóp méo
sự thực của tác giả. Hồ Ngọc Đại tuy là con rể của ông Lê Duẩn nhưng chưa bao giờ
làm trong bộ tổng tham mưu hay cơ quan tình báo quân đội. Khi ông ta, một người
ngoài quân đội báo cho Lê Duẩn tin đó thì thực tế Lê Duẩn đã biết từ rất lâu.
Việc quân đội tiến vào một thành phố không phải là một hành động bất chợt theo
kiểu nghe tin tháp đôi ở Mỹ sụp đổ. Mọi diễn biến của việc tiến quân, áp sát
thành phố cũng như các thông tin tình báo về lực lượng phòng thủ đều được báo
từ trước cho ông Duẩn. Và thực tế là mọi người trong bộ tổng tham mưu đều biết
là Phnompenh bị bỏ ngỏ. Quân Khơ-mẻ đỏ không có ý định tử chiến ở đó. Việc xác
định Phnompenh bị bỏ ngỏ được biết từ trước khi Hồ Ngọc Đại biết được là bộ đội
tiến đến gần thành phố - chứ đừng nói là thời điểm ông ta tin đã chiếm được
thành phố. Cách trích dẫn nguồn bằng cách nhấn vào những chi tiết rõ ràng là
không liên quan (nhưng có lợi cho dụng ý của tác giả) như con rể của Lê Duẩn
khiến cho cuốn sách mất tính khách quan mà lịch sử đòi hỏi phải có."
Ngoài ra, tôi xin thêm vào ở đây như thế này:
Anh Huy Đức ám chỉ rằng việc phải mười năm sau quân đội Việt Nam mới rút là cái
giá quá lớn. Nhưng thực tế lịch sử cho thấy, các cuộc chiến tranh du kích
thường kéo rất dài và cái giá phải trả không bao giờ nhỏ. Người Pháp mất 9 năm
ở Việt Nam rồi phải rút lui trong thất bại. Người Mỹ cũng mất gần 20 năm từ khi
ủng hộ trực tiếp ông Diệm tới năm 1975 với một kết cục bại trận. Ở Iraq và
Apghanistan, nước Mỹ, sau 10 năm cũng đang rút ra và chúng ta không hề biết các
chính phủ đó có đứng vững sau khi người Mỹ ra đi hay không. Ở Apghanistan,
người Nga rút đi sau 10 năm đánh nhau và chỉ 2 năm sau đó Taliban treo cổ vị
tổng thống do Nga dựng lên.
Cuộc chiến tranh du kích giữa Palestine và Israel đã bắt đầu từ hơn 30 năm
trước và tới bây giờ không ai trong số chúng ta có thể chắc được trước khi nhắm
mắt, chúng ta thấy được hai bên tham chiến sống hoà thuận với nhau.
Thực tế của 10 năm ở Campuchia là đất nước ta kiệt quệ về kinh tế, và rất nhiều
máu đã đổ. Tuy nhiên, thành quả của những hy sinh đó là ngày nay các lãnh đạo
của Khơ-me đỏ bị toà án quốc tế xét xử ngay tại Phnom Penh. Người Việt Nam hoàn
toàn có thể yên tâm đi lại trên đất Campuchia và ngược lại.
Quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia có những lúc không như ý - ví dụ như chuyện
Campuchia cố tình không đề cập tới vấn đề Biển Đông trong cuộc họp gần đây của
ASEAN. Tuy nhiên điều đó thể hiện rõ nhất thiện ý của Việt Nam là chúng ta
không cố gắng dựng nên một chính phủ bù nhìn ở Campuchia và ta tôn trọng ý chí
tự quyết của họ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét